Joomla!

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

Bánh mì giảm cân, bánh mì nguyên cám không còn quá xa lạ với chúng ta. Mỗi người sẽ sử dụng bánh mì với mục đích khác nhau. Vậy tác dụng bánh mì nguyên cám là gì? Đứng trước “ma trận” thông tin về câu hỏi, thì chúng ta cùng tìm kiếm thông tin chính xác về tác dụng bánh mì nguyên cám với sức khỏe của chúng ta là như thế nào nhé!

Bánh mì nguyên cám là gì?

Thực tế, ở phương Tây người ta cực kỳ chú trọng về thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, ít chất béo và bổ sung đủ lượng vitamin và calo cho cơ thể. Bánh mì nguyên cám và cái tên ưu ái “Món ăn quốc dân” của dân châu âu. Bởi chúng không chỉ là những thực phẩm dễ dàng chế biến mà còn là thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và rất tốt cho sức khỏe.

Ở nước ta nhu cầu này cũng đang dần len lỏi vào từng hộ gia đình khi mà công nghệ kỹ thuật phát triển con người sẵn sàng “giết chết” đồng loại vì lợi ích cá nhân.

tác dụng của bánh mì nguyên cám bạn nên biết

Bánh mì nguyên cám được sử dụng nguyên liệu là bột lúa mạch đen chứa hàm lượng vitamin nhóm B và hàm lượng chất xơ rất cao rất tốt cho sức khỏe.

Bánh mì là một món ăn phổ biến ở Việt Nam, nhưng mọi người chỉ biết tới món bánh mì trắng và rất ít người sử dụng bánh mì nguyên cám cho bữa sáng hay là đồ ăn chính của mình. Nhưng thực tế, và nhiều nghiên cứu cho thấy, bánh mì nguyên cám dễ ăn và có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn so với bánh mì trắng.

Tác dụng bánh mì nguyên cám với sức khỏe

tác dụng của bánh mì nguyên cám bạn nên biết

Tác dụng bánh mì nguyên cám với sức khỏe được nhiều người biết tới bởi bột lúa mạch đen chứa chỉ số glycemic thấp giúp cho bánh mì nguyên cám là lựa chọn tuyệt vời để đáp ứng cơn thèm carbohydrate mà vẫn kiểm soát được lượng calo.

1- Bánh mì nguyên cám có lượng calo ít

Thực tế, ở Việt Nam người ta thường ăn bánh mì trắng nhiều hơn. Bánh mì trắng thì được làm từ bột mì. Có rất nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra, trong hàm lượng 100g bánh mì trắng chứa tới 304 calo, và nếu có sử dụng với cá hộp thì đạt tới 399 calo và 1 lát bánh sandwich chứa tới 89 calo. Còn bánh mì nguyên cám thì hàm lượng calo chỉ có 284 calo cho 100g bánh mì nguyên cám.

2- Bánh mì nguyên cám có chất xơ cao

Bánh mì nguyên cám với thành phần 100% từ bột lúa mạch đen thiên nhiên và có lượng chất xơ cao gấp 4 lần bánh mì trắng nhưng lượng calo lại ít hơn. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh thành phần tinh bột trong lúa mì rất tốt, nó có thể kiểm soát làm giảm cảm giác đói bụng, giảm lượng đường trong máu và tăng cường quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Bánh mì chứa calo ít hơn so với lượng calo cơ thể bạn đốt cháy mỗi ngày nên rất hợp lý cho lộ trình giảm cân.

 3- Bánh mì nguyên cám có chứa vitamin nhóm B

Bánh mì nguyên cám là một trong những thực phẩm có chứa nhiều loại vitamin thuộc nhóm B, Carbohydrate phức tạp giúp chuyển hóa và tạo được năng lượng cho bên trong của cơ thể, giúp duy trì sức khỏe cả một ngày làm việc. Ngoài ra, tác dụng bánh mì nguyên cám còn rất tốt cho hệ tiêu hóa giúp ngăn ngừa táo bón và duy trì hệ thống tiêu hóa khỏe mạnh bởi chứa nhiều chất xơ.

 4- Bánh mì nguyên cám cung cấp nhiều năng lượng

Bột lúa mạch có trong bánh mì nguyên cám có khả năng cung cấp năng lượng và kiểm soát khả năng thèm ăn của cơ thể. 1 lát bánh mì buổi sáng sẽ giúp bạn có đầy đủ lượng calo để duy trì làm việc trong cả 1 buổi làm. Đây là một loại ngũ cốc giúp bạn no và hài lòng lâu hơn so với ngũ cốc tinh chế. Trong một số nghiên cứu cho thấy, tiêu thụ cháo lúa mạch đen có mức độ no cao hơn tới 8 giờ so với lúa mì tinh chế.

 5-Bánh mì nguyên cám tốt cho tim mạch

Các loại hạt và ngũ cốc được biết là thực phẩm rất tốt cho sức khỏe và người bị bệnh tim mạch vì chúng có chứa hàm lượng chất phytonutrient và chất xơ cao. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tác dụng bánh mì nguyên cám đối với những người ăn ba hoặc nhiều khẩu phần thực phẩm ngũ cốc hằng ngày sẽ giảm 20% đến 30% nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Và bánh mì nguyên cám cũng là một lựa chọn khuyên dùng.

6- Bánh mì nguyên cám ngăn ngừa ung thư hiệu quả

 

Lúa mạch đen nguyên hạt có chứa các đặc tính chống ung thư là chất xơ hòa tan và không hòa tan, axit phytic, tinh bột kháng, polyphenol, saponin và chất ức chế protease. Tất cả những khoáng chất này đều có tác dụng giúp ngăn ngừa các tế bào ung thư lây lan.

Các sản phẩm làm từ lúa mạch đen như tác dụng bánh mì nguyên cám cũng đã được chứng minh làm giảm nguy cơ ung thư vú. Đây là một tin tốt cho chị em phụ nữ.

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

TỰ HỌC LÀM BÁNH CĂN BẢN – PHÂN BIỆT CÁC LOẠI BỘT LÀM BÁNH (PHẦN 1)

Trong các nguyên liệu cơ bản để làm bánh, bột có lẽ là nguyên liệu cần phải nhắc đến đầu tiên. Kiến thức về các loại bột & cách sử dụng, nếu nói dông dài chắc đủ viết cả quyển sách. Bài viết này của mình thì chủ yếu nhằm mục đích giới thiệu và phân biệt các loại bột cơ bản & thường dùng trong làm bánh và nấu nướng nói chung, nên thông tin đưa ra là những điểm chính & quan trọng nhất, cố gắng ngắn gọn đến hết mức có thể, nếu có chỗ nào chưa thật ổn thì nhờ mọi người góp ý thêm nhé

Nói về bột trong làm bánh, trước khi phân loại có lẽ nên có đôi dòng về Gluten và Protein. Đối với một người thợ làm bánh, khi chọn bột mỳ thì có lẽ hàm lượng Gluten/Protein là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Gluten hay cũng chính là các “chuỗi” protein trong bột mỳ, khi ở dạng khô thì rất là “yên ổn”. Nhưng nếu gặp nước thì các chuỗi protein này sẽ “chuyển hóa” thành dạng sợi Gluten. Tiếp theo, trong quá trình nhào bột, nếu nhồi & nhào đúng cách thì các “sợi” Gluten này sẽ lớn dần, dài ra và dẻo dai hơn (bạn nào làm bánh mỳ rồi thì chắc là sẽ rất rõ vụ này ). Nhưng nếu chỉ có vậy thì chưa đủ, còn cần 1 thứ rất quan trọng nữa là men nở để giúp các sợi Gluten này “tóm” không khí và giữ lại trong các khe & lỗ hở bên trong mình. Khi nướng, các lỗ khí này sẽ “phồng to”, giúp bánh nở, trong khi sợi Gluten cứng lại, tạo kết cấu vững chắc cho bánh.

 

Vì Gluten là yếu tố chính tạo nên kết cấu cho bánh, nên sợi Gluten càng to khỏe, hoành tráng bao nhiêu thì bánh sẽ có độ cứng & dai nhiều (như các loại bánh mỳ chẳng hạn). Ngược lại, nếu muốn bánh mềm mại & êm dịu như mây thì lượng Gluten trong bột bánh cần thật là ít, và các sợi Gluten cũng nên yếu đuối, mỏng manh thôi, chứ không giống như Gluten trong bột bánh mỳ được.

Mặc dù protein có trong nhiều loại bột, nhưng chỉ có các chuỗi protein trong bột làm từ lúa mỳ (wheat flour) là có thể giúp tạo ra các sợi Gluten khi nhào với nước. Một số loại bột khác như bột lúa mạch đen (rye flour) hay một số loại hạt khác sẽ không giúp hình thành Gluten, nên trong một số trường hợp, để giúp tạo kết cấu ổn định cho bánh, khi sử dụng sẽ cần phải trộn các loại bột này với bột mỳ có hàm lượng Protein/ gluten cao

Đây là hai nhóm lớn nhất, nếu chia nhỏ hơn nữa (dựa vào hàm lượng Protein/ Gluten) trong bột, thì sẽ có các loại bột mỳ (thường gặp) là: Bread flour: bột làm bánh mỳ: hàm lượng Protein từ 11-14%

 

Vì Gluten quan trọng trong làm bánh như vậy nên các yếu tố quyết định Gluten tất nhiên cũng rất quan trọng. Các yếu tố này thì có nhiều, cụ thể là lượng Protein, lượng nước, lượng đường, muối, chất béo, cách nhào bột … Nhưng vì trong bài này là nói riêng về bột nên mình quan tâm đến lượng Protein trước nhé.

 

Như đã nói ở trên là không phải loại bột nào cũng có thể “sản sinh” ra Gluten, và bản thân việc sinh sôi, phát triển của Gluten cũng phụ thuộc nhiều vào hàm lượng Protein nên trong phần phân loại dưới đây, mình chia bột ra thành các nhóm tùy vào khả năng tạo Gluten của các loại bột nhé.

 

 1. Các loại bột mỳ (Wheat flour) Bản thân các bạn bột mỳ cũng được chia ra làm nhiều loại, tùy thuộc vào “sức khỏe” và “khả năng sinh sản” Gluten của các bạn ý. Về cơ bản thì có hai nhóm chính là:

Strong flour: bột mỳ có hàm lượng Gluten cao. Các loại bột trong nhóm này thường được dùng để làm các loại bánh cần kết cấu cứng cáp, dẻo dai như bánh mỳ

Weak flour: bột mỳ có hàm lượng Gluten thấp. Các loại bột trong nhóm này thường được dùng để làm các loại bánh ngọt mềm, mịn, nhẹ hoặc các loại đồ tráng miệng có hàm lượng Gluten thấp

Đây là hai nhóm lớn nhất, nếu chia nhỏ hơn nữa (dựa vào hàm lượng Protein/ Gluten) trong bột, thì sẽ có các loại bột mỳ (thường gặp) là:

Bread flour: bột làm bánh mỳ: hàm lượng Protein từ 11-14%

Pastry flour: làm bánh quy, các loại bánh mỳ nhanh như Muffin và một số loại bánh khác mềm hơn bánh mỳ nhưng không quá mềm như Gateau: hàm lượng Protein từ 9-11%

Cake flour: bột làm bánh ngọt: làm các loại bánh cần kết cấu mềm nhẹ: hàm lượng Protein từ 7-9%

Ngoài ba loại ở trên ra thì hiện tại trong làm bánh có 2 loại bột khác, rất rất phổ biến nhưng việc phân loại không dựa vào hàm lượng Protein/ Gluten lắm, là:

All purpose flour/ Plain flour (bột mỳ đa dụng/ bột mỳ thường): đây là loại bột làm bánh thường được sử dụng trong gia đình (mặc dù sách bảo là thợ làm bánh chuyên nghiệp thì họ chẳng dùng bột đa dụng kiểu này bao giờ). Gọi là bột mỳ đa dụng là bởi vì nó “đa dụng” – tức là dùng để làm gì cũng được Hàm lượng Protein trong bột mỳ đa dụng thường dao động quanh khoảng 10.5 – 11.5%.

Self-rising flour : là bột mỳ đã trộn sẵn với bột nở & muối. Ưu điểm là tiện hơn all purpose flour vì không cần trộn thêm bột nở, nhược điểm là bột trộn sẵn & để lâu thì có thể tác dụng của bột nở sẽ kém hơn, thêm nữa là mỗi công thức bánh có thể sẽ yêu cầu lượng bột nở khác nhau, cho nên không thể dùng cho mọi công thức. Cá nhân mình không thích và không dùng bột này.

 Ngoài các loại bột mỳ thông dụng và thường gặp nhất kể trên, còn một số loại bột khác cũng được xay từ hạt lúa mỳ là

Bột mỳ nguyên cám (Whole wheat flour): xay từ nguyên hạt lúa mỳ, không chỉ giàu Protein hơn mà còn giàu dinh dưỡng và các loại khoáng chất hơn các loại bột kể trên. Về màu sắc thì các loại bột mỳ nguyên cám này sẽ có màu sẫm và cũng kém mịn màng hơn. Khi làm bánh sử dụng bột mỳ nguyên cám thì người ta khuyên là nên trộn bột mỳ nguyên cám với bread flour  để bánh có kết cấu dẻo dai & ngon lành nhất.

Graham flour: cũng là một loại bột mỳ nguyên cám, là thành phần chính trong các công thức

Cracker Durum flour: bột xay từ durum wheat, có hàm lượng Protein rất cao, dùng làm các loại pasta của Ý

Các loại bột mỳ chính thì mình nghĩ vậy là tạm đủ rùi. Hi vọng là những thông tin này sẽ giúp cả nhà lựa chọn được loại bột phù hợp nhất để làm bánh Bản thân mình thì trước đây thường là mua bừa bột mỳ bán trong siêu thị, sau khi biết được vụ Protein/ Gluten này thì đi mua bột bắt đầu để ý hơn, và tự nghiên cứu thành phần bột để mua chứ không xem nhãn mác nữa.

Về việc sử dụng bột thay thế cho nhau thì có mấy điểm như sau:

– Để làm bánh mỳ nếu không có bread flour, các bạn có thể dùng all purpose flour, bánh mỳ sẽ vẫn ngon nhưng có thể sẽ không dai bằng (nhưng nói thật là nhiều loại bánh mỳ như Baguette chẳng hạn, có bread flour vẫn là tốt nhất)

– Với pastry flour và cake flour thì các bạn có thể thay thế bột theo công thức sau:

Thay 120gram Cake flour bằng 100gram All purpose flour + 20gram Corn starch (tinh bột ngô)

Thay 120gram Pastry flour bằng 105gram All purpose flour + 15gram Corn starc

Cuối cùng là mặc dù nói hàm lượng Protein rất quan trọng, nhưng thực ra một con số ghi lượng Protein trên bao bì cũng chưa đủ nói lên nhiều điều lắm, vì chất lượng của bột còn tùy thuộc vào chất lượng lúa mỳ, quá trình sản xuất, quá trình bảo quản… Cho nên để làm bánh ngon thì ngoài việc chọn mua loại bột phù hợp, cũng nên cố gắng mua bột của các nhãn hiệu tin cậy, và có cách bảo quản hợp lý (bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh nắng chiếu trực tiếp, bột mở ra rồi thì nên dùng càng nhanh càng tốt, và tuyệt đối không dùng loại bột đã có dấu hiệu bị mọt, hỏng nhé).

Hết phần 1 về bột mỳ – phần 2 sẽ về bột từ các loại hạt khác & một số loại bột dùng riêng cho các loại bánh của Việt Nam. Chúc cả nhà cuối tuần vui vẻ Bài viết sử dụng hình ảnh minh họa từ tìm kiếm ngẫu nhiên qua Google. Các kiến thức & thông tin tham khảo từ sách Professional Baking của Le Cordon Bleu. 

Xem tiếp các loại bột làm bánh phần 2 

 http://www.savourydays.com/ban-quyen-cong-tac/

 Bản quyền - Cộng tác - Savoury DaysSavoury Days

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

Từ thế kỷ 19 thành phố Đà Nẵng thay thế Hội An giữ vai trò quan trọng, là cửa ngõ giao thông về ngoại thương, phát triển kinh tế của miền Trung. Những thương thuyền ngoại quốc từ các nước Âu Châu, Mỹ hay các quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ, Macau, Singapore, Manila. từng lui tới cảng Đà Nẵng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Về địa danh Đà Nẵng theo tài liệu lịch sử có nhiều danh xưng như: Hàn Cảng, Hiện Cảng… nhưng người ta thường gọi là: Hàn, Tourane, Đà Nẵng.

Năm 1817 thực dân Pháp bỏ bang giao bằng ngôn ngữ, thay thế bằng vũ lực là tàu đồng, súng đại bác với đoàn quân viễn chinh thiện chiến. Năm 1847 vì nhu cầu bành trướng thế lực ở Viễn Đông, tìm thị trường tiêu thụ và khai thác vật liệu rẻ như: bông vải, lụa, đường, gạo, café, cao su, quế gỗ quý…Trong lúc triều đình Việt Nam thi hành chính sách bế môn tỏa cảng cấm đạo, tình hình trong nước không ổn định, giặc giã nổi lên khắp nơi, thêm nạn giết giáo sĩ truyền giáo là một cái cớ để Pháp xâm lăng. Thái Lan ký hiệp ước thương mại dễ dàng với Anh năm 1826 và Hoa Kỳ năm 1833, với Pháp 1856khôn khéo ngoại giao với người Tây phương tránh được tai họa xâm lăng. Nhật Bản năm 1868 mở đầu công cuộc Minh Trị Duy Tân (Meiji Ishin). Cuộc cải cách nầy tạo nên một thời đại mới cho nước Nhật. Minh Trị Thiên Hoàng (Mutsohito) chủ trương canh tân đất nước, theo lối giáo dục, thương mại của Tây phươngNhật Bản trở thành quốc gia quân chủ lập hiến giàu mạnh.  

Tóm lược những điểm chính trong biến cố lịch sử (1859-1945)

Đà Nẵng có vị trí chiến lược quan trọng, nhiều lần tàu chiến Pháp vào Đà Nẵng thử sức với quân VN. 15.4.1847 đại tá Lapierre trên tàu Gloire bắn phá rồi bỏ đi. Ngày 26.09.1856 Lelieur cho tàu Catinat bắn phá các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng vì chính sách sai lầm của vua Tự Đức với thảm kịch xử chém Giám mục Maria Diaz Sanjunjo người Tây Ban Nha  20.7.1857. Nên Pháp lôi kéo quân Tây Ban Nha cùng tham chiến tại Việt Nam.

Liên quân Pháp-Tây Ban Nha vào Sơn Trà mở màn cho cuộc chiến xâm lược Việt Nam, giai đoạn đầu tấn công từ 01.09.1858 đến năm 1859 Pháp và Tây Ban Nha chiếm vùng đất hữu ngạn sông Hàn, khống chế vịnh Đà Nẵng. Thời gian đánh Đà Nẵng Pháp chia quân vào Nam 10.02.1859 đánh thành Gia Định. Sau khi chiếm thành Gia ĐịnhDe Genouilly trở ra Đà Nẵng những trận đánh ác liệt tiếp tục, xảy ra, đô đốc Genouilly bị bệnh nên phó đề đốc Page lên thay thế 01.11.1859. Bộ Hải quân và thuộc địa Pháp ra lệnh Page tái chiếm Sài Gòn, qua những lần thương thuyết với triều đình Huế không thành công. Page tự động công bố Sài Gòn là hải cảng thương mại tự do ngày 22.2.1860. Vì bận tham chiến với Anh ở Trung Hoa. Page ra lệnh ngày 23.3.1860 rút toàn bộ quân khỏi Đà Nẵng vào Sài Gòn cố thủ, Page đưa quân sang mặt trận Trung Hoa. Sau khi giải quyết xong ở Tàu, Pháp trở lại Gia Định 07.2.1861 chiếm ba Tỉnh Miền Đông Nam Kỳ. Ngày 25.2.1861 đánh đồn Kỳ Hòa, thành bị vỡ, Nguyễn Tri Phương bị thương, tán lý Nguyễn Duy tử trận, liên quân Pháp, Tây Ban Nha chiếm Mỹ Tho, Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long. Ngày 11.4.1861 phó đề đốc Léonard Chaener ra nghị định xây dựng thành phố Sài Gòn trên vùng đất rộng 2.500 ha.

Những cuộc chiến ở Bắc kỳ càng ngày thêm phức tạp, phó đề đốc Bonard gởi chiến thuyền ra Đà Nẵng uy hiếp triều đình Huế, trước tình hình rối ren như vậy phải trên bàn thương thuyết, ngày 28.5.1862 các quan đại diện cho triều đình là Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp đến Sài Gòn và Louis Bonard đại diện Pháp cùng ký hòa ước Nhâm Tuất 05.06.1862. (gồm 11 điều khoản) Việt Nam chịu nhiều thiệt hại, dù trong đó có điều trả lại Vĩnh Long. Sau hoà ước Nhâm Tuất triều đình Huế muốn chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, nên cử phái đoàn Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản đến Paris 13.9.1863. Nhưng chuyến đi vận động ngoại giao của phái đoàn Việt Nam hoàn toàn thất bại, trước tham vọng thực dân Pháp muốn chiếm Việt Nam làm thuộc địa.

(hình quân pháp đổ bộ vào Đà Nẵng)

 

Chính phủ Pháp bổ nhiệm phó đề đốc Bonard làm tư lệnh toàn quyền hành chánh và quân sự. Ngày 15.06.1867 De la Grandière chỉ huy đoàn quân 1200 nguời, 400 lính tập với tàu chiến pháo hạm từ sông Sài Gòn đến chiếm Mỹ Tho, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Sau khi mất ba tỉnh miền TâyPhan Thanh Giản (1796-1867) tuyệt thực uống thuốc độc tự tử ngày 05.7.1867. Pháp đánh Hà Nội ngày 20.01.1873 đại uý Francìs Garnier tấn công thành Hà Nội  Nguyễn Lâm tử thương, Nguyễn Tri Phương (1800-1873) bị thương, ông nhịn đói chịu đau từ trần ngày 20.02.1873. Pháp tiếp tục đánh chiếm phủ Hoài Đức, Gia Lâm, Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Một tháng sau F. Garnier bị giết (chặt đầu) ở Cầu Giấy, trong thời gian nầy đại diện phái đoàn Huế Nguyễn Văn Tường và Philastre cùng ký thỏa ước đầu tiên ngày 05.01.1874 Pháp phải trả lại Ninh Bình, Nam Định. Ngày 06.02.1874 Nguyễn Văn Tường và Philastre ký thỏa ước thứ II, nhiều khoản cho quân Pháp đồn trú ở Hải Phòng, đặt trú sứ Pháp với quân hộ vệ ở Hà Nội. Vua Tự Đức lo ngại các thỏa ước đã ký, nhưng vẫn để Nguyễn Văn Tường vào Sài Gòn cùng Lê Tuấn bàn chuyện ký hoà ước mới. Hoà ước Giáp Tuất ngày 15.03.1874 gồm có 22 điều khoản, Hoà ước ký xong chánh sứ Lê Tuấn từ trần ngày 17.03.1874, Nguyễn Văn Tường về Huế. Dupré bàn giao chức thống đốc cho phó đề đốc Krantz, về Pháp ngày 16.03.1874.

Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ II lấy cớ khai thông sông Hồng gặp khó khăn. Đại tá Henri Rivière rời Sài Gòn với đoàn quân 500 người và tàu chiến ngày 26.03.1882 đến Hải Phòng ngày 02.4.1874 và hôm sau tới Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu (1828-1882)cử tuần phủ Nguyễn Hữu Xứng đến yều cầu Henri R. cho biết lý do đến Hà Nội. Ngày 04.04 Henri R. đến gặp Hoàng Diệu cho biết đến bảo vệ kiều dân Pháp và yêu cầu Hoàng Diệu bỏ các công sự phòng thủ. Hoàng Diệu không thuận, sáng 25.04.1882 Henri R. dàn quân trước thành gởi tối hậu thư buộc Hoàng Diệu giao thành đầu hàng trước 8 giờ sáng. Hoàng Diệu quyết tử chiến, nhưng không thể giữ thành được, để tránh thiệt hại ông ra lệnh binh sĩ rút lui, Hoàng Diệu vào văn miếu viết tờ di biểu gởi về triều đình và thắt cổ tự tử. Triều đình cử Trần Đình Túc tới Hà Nội ngày 10.05.1882, Henri R. tuyên bố trả thành Hà Nội hai bên cùng giải quyết vấn đề địa phương. Giai đoạn nầy Nhà Thanh và Pháp muốn chia hai Bắc Kỳ, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam vì mưu lợi, trong lúc Pháp muốn chiếm trọn Bắc Kỳ. Ngày 10.12.1882 tại Thiên Tân Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm ước về Bắc Kỳ, Trung Hoa chiếm phía bắc sông HồngPháp thuộc về phiá nam Sông Hồng. Vì quyền lợi về hầm mỏ và tài nguyên Pháp muốn độc quyền chiếm đóng cả Bắc Kỳ, sau đó xóa bỏ tạm ước Thiên Tân ký với Tàu.

Cuối năm 1882 Quốc hội Pháp đồng ý tăng viện trợ cho Henri Revière 750 quân. Henri R. rời Hà Nội ngày 23.3.1883 đến thành Nam Định 25.3. yêu cầu tổng đốc đầu hàng, nhưng tổng đốc Võ Trọng Bình không trả lời, ngày 27.3 quân pháp tấn công chiếm thành, giao cho thiếu tá P. Bandens trấn giữ rồi rút quân về Hà Nội. Ngày 19.05 1883 Henri R. hành quân ngoại ô Hà Nội bị quân cờ Đen bắn chết. Thực dân Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ và chuẩn bị đánh kinh thành Huế, phó đề đốc Courbet được lệnh của bộ Hải quân và Thuộc địa đánh Thuận Hóa ngày 11.8.1883. Pháp đánh Thuận An ngày 20.8.1883 quân Việt phải rút lui, ngày 21.8 triều đình cử quan thượng bạc Nguyễn Trọng Hợp đến Thuận An đề nghị đình chiến, cuối cùng phái đoàn Việt Nam phải ký hòa ước Quý Mùi 25.8.1883sau đó hòa ước Giáp Thân 06.06.1884 thực dân Pháp đặt nền bảo hộ tại Việt Nam. Từ đó là những trang sử đau buồn cho Việt Nam. Dân tộc Việt Nam luôn tranh đấu qua nhiều phòng trào đánh Tây, muốn thoát khỏi vòng nô lệ nên máu xương của dân quân tiếp tục đổ ra trên dòng sông lịch sử, cho đến ngày giành lại độc lập năm 1945.

Đà Nẵng là địa danh trải qua những đau thương của lịch sử, bị 62 năm làm nhượng địa cho thực dân PhápNgày 01.10.1888 vua Đồng Khánh ký nhượng hẳn cho Pháp quyền sở hữu Hà Nội, Hải Phòng và khu Đà Nẵng. Khu Đà Nẵng gồm 5 xã cắt ra từ huyện Hòa Vang: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương, Nại Hiên Tây. Được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y bằng Nghị định ngày 02.10.1888. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có diện tích 10.000ha (tương đương với 20.000 mẫu ta). Nhượng địa Đà Nẵng thay đổi theo từng thời gian đã trở thành một thành phố theo mô hình Tây phương, lấy thương mại làm nguồn sống và phát triển, đứng đầu thành phố là Đốc Lý (thị trưởng) có Hội Đồng Thị Xã.

Năm 1902 Hội An vẫn còn là trung tâm thương mại quan trọng, Pháp cho làm con đường sắt kiểu Deceauvillleđược gọi là Tramway de l´ilôt de l’Observatoire à Faifoo) nối liền Đà Nẵng Hội An hoạt động tới năm 1916 thì bị dẹp bỏ. Nhiều công ty lớn của Pháp đến Đà Nẵng đầu tư phát triển mạnh như: Messageries Maritmes (hàng hải), hãng Chargeurs- Réunis, Sica (hãng rượu), BGI (hãng bia) Esso (Xăng dầu), Eiffel. (cầu đường)… v v. Đông Dương Ngân Hàng (Banque de l‘Indochine); Pháp Hoa Ngân Hàng (Banque Franco-Chinois), Ngân hàng Nông Tín Bình Dân (Banque de Crédit Populaire Agricole), hệ thống khách sạn, nhà máy, bưu điện. Y tế. Cảng Đà Nẵng mở rộng đào vét sâu hơn, nhiều thương thuyền ngọai quốc có trọng tải lớn cập bến dễ dàng. Tuy nhiên trước năm 1922 ở Đà Nẵng còn dùng đèn khí đá Carbure, đèn manchon, đèn treo Hoa Kỳ đốt bằng dầu lửa. Đến năm 1923 Cty SIPEA (Société Industrielle pour les eaux et L‘ Electricité en Asie) trúng thầu khai thác về điện lực đem lại ánh sáng văn minh đầu tiên cho Đà Nẵng. Hệ thống cung cấp nước máy chưa thực hiện, nên phải dùng giếng bơm hay giếng đào.

Năm 1927 hãng xe đò của người Việt ra đời cạnh tranh với hãng xe STACA của Pháp. Vì nhu cầu khai thác kinh tế tại Đà Nẵng, Năm 1905 nhà cầm quyền Đông Dương cho mở hải cảng và đường hỏa xa có Ga chính ở đường Lagrée (Nguyễn Hoàng ngày nay) vì nhu cầu cho việc chuyển hàng hoá nên Phòng Thương mại làm thêm đường rầy tới bờ sông Hàn, nên người ta thường gọi GA LỚN và GA CHỢ HÀN.  Năm 1936 dân số Đà Nẵng khoảng 25.000 người, người Hoa cũng đến buôn bán kinh doanh thành các bang: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hẹ

Sau thế chiến thứ II. 1939-1945 lịch sử Việt Nam đã bị ảnh hưởng

Nhật đảo chánh Pháp ngày 09.03.1945 tại Đông Dương, Đại sứ Matsumoto Shunichi tuyên bố trao trả độc lập cho VN (?) „Châu Á trả về cho người Châu Á“. Ngày 11.3.1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, chế độ bảo hộ và thuộc điạ của Pháp cáo chung. Hòa ước Giáp Thân ký ngày 06.06.1884 dưới thời vua Kiến Phúc (trị vì 1883-1884) vô giá trị. Ngày 17.04.1945 Việt Nam thành lập Chính phủ Trần Trọng Kim.

* 20.07.1945 toàn quyền Nhật Tsuchihasshi long trọng trao trả các thành phố nhượng địa mà họ đã chiếm lại của người Pháp, từ đó danh từ Đà Nẵng chính thức thay thế tên gọi Tourane dưới thời thuộc điạ.

* 06.8. và 09.8.1945 Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh 14.8.1945.

* 25.08.1945 vua Bảo Đại thoái vị, kết thúc triều đại nhà Nguyễn trị vì qua 143 năm (1802- 1945).

* 16.09.1945 quân Pháp núp bóng quân Anh để trở lại Việt Nam.

* 13.03.1946 một thỏa hiệp ký kết giữa Pháp-Hoa. Trung Hoa đồng ý để cho Pháp thay thế trong việc giải giới quân Nhật ở Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc.

* 27.3.1946 một lữ đoàn Thủy quân lục chiến Pháp gồm 700 quân đổ bộ lên cảng Đà Nẵng[1]

* 9.12.1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đà Nẵng cũng như nhiều nơi khác nằm trong chiến tranh mới “cuộc chiến không còn chiến tranh thuộc địa mà là cuộc chiến giữa cộng sản và thế giới tự do”. Đà Nẵng có một thời gian ngắn bị đổi là Thái Phiên, vì nhu cầu  tình hình Việt nam và thế giớiPháp bắt buộc phải lựa chọn một giải pháp chính trị mới cho Việt Nam và giải pháp đó không gì tốt hơn là chọn cựu hoàng Bảo Đại, cuối tháng 12.1947, cựu hoàng đến Pháp thương thuyết.

Ngày 5.6.1948 cựu hoàng về vịnh Hạ Long ký kết thỏa ước Hạ Long trên tàu Duguay-Trouin, thừa nhận VN dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đại một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau thỏa hiệp nầy quốc trưởng Bảo Đại sang Paris ký thỏa ước Elysée với Tổng thống Pháp là Vincent Auriol. Ngày 08.03.1949 Pháp thừa nhận VN là một quốc gia. Như vậy qua thỏa ước Elysée, Pháp đã giải kết những hòa ước trước đây nhà Nguyễn đã ký kết với Pháp. Thời gian Pháp đô hộ, người dân Đà Nẵng- Quảng Nam luôn đấu tranh chống Pháp qua các phong trào Nghĩa Hội (1885) Phong trào Duy Tân (1905) đến vụ xin xâu chống thuế „Trung Kỳ Dân Biến“ (1908), Ủy ban khởi nghĩa (1916) Việt Nam Quang Phục Hội Trung Kỳ của Thái Phiên, Lâm Nhĩ, Hồ Cảnh Vinh, Phan Thành Tài, Lê Cơ với Trần Cao Vân giúp vua Duy Tân khởi nghĩa dù thất bại, nhưng làm thực dân Pháp ăn ngủ không yên

Di tích lịch sử và văn hoá

Ngày 03.01.1950 chính phủ Pháp chính thức trao trả Đà Nẵng cho Việt Nam. Phần lớn thế hệ chúng tôi sinh ra trong thời điểm đó ở Đà Nẵngđi học ít chú ý đến biến cố, địa đanh lịch sử của quân dân Việt Nam chống Tây. Kiến thức về lịch sử, địa lý rất hạn hẹp vì chỉ học những giờ Sử Điạ ở trường mà thôi. Những thập niên qua với tinh thần trở về nguồn của đồng hương Xứ Quảng, phát hành Đặc san xuân, hàng năm Đại Hội liên Trường, giỗ cụ Phan Châu Trinh do Hội ái hữu trường trung học Phan Châu Trinh, Phan Thanh Giản tổ chức, nhờ hệ thống xa lộ thông tin (Information superhighway), tôi có cơ hội liên lạc với các bạn một thời Đà Nẵng khắp nơi trên thế giới, hồi tưởng kỷ niệm về Quảng Nam Đà Nẵng, mái trường xưa. Nhìn lại lịch sử thời thuộc điạ, người Pháp không thực sự muốn khai hóa dân tộc Việt Nam, giới hạn phát triển các trường Trung và Đại học, trước năm 1936 trường Quốc Học Huế chỉ dạy hết bậc cao tiểu học (trung học đệ nhất cấp) bằng cao tiểu còn gọi là bằng thành chung (Diplôme d’ Etudes Primaires Supérieures). Năm 1936-1937 trường Quốc Học đổi thành Khải Định bắt đầu mở ban tú tài.

Suốt thời gian bị nhượng địa cho Pháp, Đà Nẵng chỉ có các trường tiểu học dành cho Pháp gọi là École Française và hai trường cho Nam (École des Garçons) và Nữ (École des Jeunes Filles). Tỉnh Quảng Nam đông dân nhất miền Trung không có trường Trung học, những thế hệ trước phải ra học ở Huế, Hà Nội hay Sài Gòn. Năm 1927 Pháp cho mở tú tài bản xứ (baccalauréat local) đến năm 1930 được công nhận như tú tài chính quốc (baccalauréat metropolitian). Sau khi Đà Nẵng được trao trả „độc lập“ do đề nghị của chính quyền điạ phương ngày 06.05.1954 quyền tổng trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục và Thanh Niên Bộ Giáo Dục ban hành nghị quyết số 95_GD-NĐ. thành lập các trường trung học công lập đầu tiên miền Trung là: Đào Duy Từ (Đồng Hới), Nguyễn Hoàng (Quảng Trị), Trần Quý Cáp (Hội An), Võ Tánh (Nha Trang), Duy Tân (Phan Rang), Phan Bội Châu (Phan Thiết), Phan Châu Trinh (Đà Nẵng), có truyền thống giống như các trường Quốc Học Huế, Chu Văn An Hà Nội, Pétrus Ký Sài Gòn.

Đà Nẵng một thời vang bóng, đầu thế kỷ 19 do sự phát triển của thành phố đông dân hơn, năm 1965 vì chiến tranh dân từ các quận mất an ninh về Đà Nẵng sinh sống, làm sở Mỹ, đời sống sung túc hơn. Nhiều trường Trung học công lập: Thanh Khê, Đông Giang, Nguyễn Trường Tộ, Quốc Gia Nghiã Tử, Nữ trung học Hồng Đức, Văn Hoá Quân Đội, Kỹ thuật. Ngoài ra còn có nhiều trường trung, tiểu học tư thục như Bồ Đề, Sao Mai, Thánh Tâm, Phan Thanh Giản, Tây Hồ, Bán công Nguyễn Công Trứ, Pascal, Thọ Nhơn…. Nhờ sự vận động nhiều năm của nhân sĩ Đà Nẵng, mùa xuân 1974 Viện Đại Học Cộng Đồng được thành lập (chương trình học như của Hoa kỳ). Các trường công cũng như tư thục tại Đà Nẵng đào tạo rất nhiều người tài giõi phục vụ đất nước. Rời Việt Nam người Đà Nẵng – Quãng Nam  mang theo truyền thống giáo dục được hấp thụ trước 1975, đến xứ người thành đạt trên mọi phương diện không thua kém người bản xứ.

Đà Nẵng tiếp xúc văn minh Tây Phương nên những Giáo sĩ truyền đạo có nhiều cơ hội gieo đức tin Thiên Chúa. Thời xa xưa chỉ có một nhà Nguyện ở thành Điện Hải, nhà thờ Phú Thượng cách xa thị xã 20 km (ngã ba Hoà Khánh đi Bà Nà) xây năm 1876 nơi đó còn có dòng tu kín Phao lô, nhà thờ Chính tòa trên đường Độc Lập xây năm 1923đó là nhà thờ lớn duy nhất được xây dưới thời nhượng địa. Năm 1963 Ðức Cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được Tòa Thánh bổ nhiệm về làm Giám mục Ðà Nẵng tiên khởi (giáo phận mới thành lập).

Năm 1954 làn sóng di cư từ Quảng Bình vào Đà Nẵng có những khu định cư Thanh Bồ, Đức Lợi, Tam Tòa, vì nhu cầu phục vụ Thánh Thể nhà Thờ được xây thêm. Giáo dân luôn có bổn phận với tổ quốc và dân tộc, trái với dư luận: “ai theo Thiên Chúa là rước Pháp vào và theo Pháp phản quốc.” cũng như ngày nay những nhóm khủng bố thường phát xuất từ những người Hồi Giáo cuồng tín, nhưng không phải tất cả tín đồ Hồi Giáo đều là khủng bố. Các Thừa Sai, Giáo Sĩ người Tây Phương mang Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 16 (1659) chứ không phải thực dân Pháp. Các phong trào chống Tây chống luôn người có Đạo vì thành kiến họ làm tay sai cho Tây, nên họ phải sống tập trung thành từng khu để tự bảo vệ. Trường hợp Giáo dân ở vùng Trà Kiệu[2] thuộc quận Duy Xuyên Quảng Nam, phải đương đầu với phong trào Văn Thân chống Tây…

Trên lý thuyết Đà Nẵng từng là nhượng điạ của Tây, nhưng đạo Phật tư do phát triển mạnh có nhiều chùa như:

Chùa Phổ Đà: khởi dựng năm 1927, tổ khai sơn là Hòa thượng Thích Tôn Thắng, chùa được trùng tu vào các năm 1937, 1945, 1983 hệ Chính Tông Phật Giáo đào tạo nhiều tăng ni nổi tiếng, trước có tên Phật học viện Trung Phần, năm 1961 đổi tên là Phổ Đà, điạ chỉ 332 Phan Châu Trinh.

Chùa Tam Bảo: xây từ năm 1953-1963, chùa có 5 tháp cao do thợ Quảng Nam pha màu trước khi nung ngói, tạo ra 5 màu sắc biểu tượng của Phật giáo. Đây là chùa theo phái Nam Tông (từ Ấn Độ sang)trước chùa có 2 cây bồ đề là cây con của bồ đề Đạo Tràng (nơi Thích Ca thành Phật), Chùa có 2 tầng tháp nơi cất giữ một phần nhỏ Xá Lợi Phật. Toạ lạc số 327 Phan Châu Trinh.

Chùa Pháp Lâm: Năm 1936 do nhóm cư sĩ “An Nam Phật Học” thuộc Chi Hội Đà Nẵng đứng ra xây dựng, chùa được trùng tu năm 1970 là trụ sở của tỉnh Hội Phật Giáo. Ngoài ra còn các chùa Từ Vân, Bảo Nghiêm, Từ Tôn và các chùa nổi tiếng ở Ngũ Hành Sơn….

Hội Thánh Tin Lành được thành lập năm 1911 các Mục sư từ Mỹ là: R.A. Jaffray, Paul M. Hoster, G. liloryd Hugles mua đất xây dựng nhà Thờ bằng lá tại đường Khải Định năm 1913.  Đạo Tin Lành cũng gặp khó khăn với chính quyền Pháp, Pháp sợ ảnh hưởng của Mỹ đến Việt Nam(?)Lúc đầu chỉ có 20 tín đồ trong đó có 2 người thuộc hoàng tộc: Công Tôn Nữ Thị Hầu và Công Tôn Nữ Tú Oanh (cháu nội vua Minh Mạng)mãi đến năm 1922 Hội Thánh được xây lại bằng gạch ngói, mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội trưởng đầu tiên.

Năm 1956 Đạo Cao Đài khánh thành Trung Hưng Bửu tòa, ra mắt Hội Thánh truyền giáo Cao Đài. Sau nầy có các thánh thất như Trung Thành, Trung Đồng, Liên Hoa, Trung Bửu, Trung Tâm Thánh Thất Tịnh.

Năm 1915 thành lập viện bảo tàng Chàm, dưới sự bảo trợ của viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Việt Nam. Kiến trúc mô phỏng theo đường nét kiểu tháp Chàm. Trưng bày hiện vật điêu khắc bằng đá và đất nung (có niên đại từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 15)các hiện vật khai quật từ Quảng Bình đến Bình Định.

Trước 1975 Đà Nẵng có các rạp Ciné Chợ Cồn (Tân Thanh), Trưng Vương, Li Đô, Kim Châu, Kinh Đô, Kim. Ngoài ra còn có nhà hát Hòa Bình…những quán cafe hữu tình như Lộng Ngọc, Quỳnh Châu, Ngọc Anh. Câu lạc bộ Phượng Hoàng, các quán bê thui ở đường Ông Ích Khiêm, Hội Khuyến Học, Hội Việt Mỹ…Nhiều Ty, cơ sở hành chánh lớn của vùng I. Bộ chỉ Huy Quân Đoàn I, sư Đoàn I Không Quân, bộ tư lệnh Hải Quân ở Tiên Sa, phi trường Đà Nẵng. bệnh viện Toàn Khoa, bệnh viện Duy Tân của Quân đội. Bến xe chợ Cồn đi liên tỉnh, bến xe Diên Hồng (công trường con gà cũ) đi Non Nước, Sơn Trà, ở ngã năm Hoàng Diệu có bến xe “Traction” đi Huế và đường xe lửa hoạt động giới hạn giữa Huế. Đà Nẵng chỉ có một cầu De Lattre để qua vùng biển Mỹ Khê, ngoài ra còn có chiếc phà qua lại trên sông Hàn.

Đà Nẵng phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên, phía Tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là biển Đông. Cách Hà Nội 764 km, Sài Gòn 964 km. Trước 1975 dân số khoảng nửa triệu người. Năm 2009 dân số tăng lên hơn 951.700 người, diện tích 1.285,5 km² (trong đó có 305 km² của Hoàng Sa), mật độ trung bình 690/ km², biển 15.000 km². Hiện nay có 6 quận và 2 huyện Hòa Vang và Hoàng Sa. Hệ thống giáo dục có 15 trường Đại học, Học viện; 17 trường Cao đẳng; nhiều trường trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và hơn 200 trường học  phổ thông. Có 17 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, 11 bệnh viện và trung tâm y tế quận huyện, 47 trạm y tế xã phường và trên 900 phòng khám chữa bệnh tư nhâncùng với sự hình thành của trường Đại Học Y Dược và trường Đại Học Kỹ Thuật Y Tế. Cảng Đà Nẵng sâu có 9 cầu cảng dọc theo sông Hàn, sân bay quốc tế, có nhiều xí nghiệp lớn của các ngành dệt, sản xuất hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến, công nghệ cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng.. (theo tài liệu của thành phố Đà Nẵng).

Sông Hàn dài 204 km, thơ mộng chảy qua biển Đà Nẵng dài khoảng 30 km cát trắng mịn, có nhiều bãi tắm đẹp như: Non Nước, Mỹ Khê, Tiên Sa, Thanh Bình, Thanh Khê, Mỹ An, Xuân Thiều, Nam Ô…. Chung quanh bán đảo Sơn Trà có nhiều san hô, Ngũ Hành Sơn cách Đà Nẵng  khoảng 7 km là một thắng cảnh đẹp, đứng ở Non Nước có thể nhìn thấy xa xa là cù lao Chàm. Đà Nẵng nằm giữa vùng kế cận ba di sản văn hóa thế giới: Cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn, chính vị trí này đã làm nổi rõ vai trò quan trọng. Đà Nẵng trải qua 706 năm (1306 -2012) gắn liền với các thời kỳ lịch sử. Ngày nay về thăm Đà Nẵng chắc chắn chúng ta phải ngỡ ngàng trước nhiều đổi thay, những con đường xưa mang tên mới xa lạ, trường Phan Thanh Giản, Sao Mai và nhiều trường khác bị đổi mất tên. Có thêm vài ba cái cầu bắc ngang sông Hàn, nhiều dinh thựkhu nghỉ mát dành cho những giai cấp mới tư bản đỏ, nhiều vùng đất dành cho ngoại quốc đầu tư, Đà Nẵng phát triển nhưng đã làm cho người dân khốn khổ như trường hợp ở Cồn Dầu và nhiều nơi khác bị cướp đất, họ phải chiụ mọi thua thiệt vì “thấp cổ bé miệng”. Chúng ta xa quê hương đã lâu có cuộc sống hội nhập tốt đẹp ở xứ người luôn mong ước Việt Nam phát triển kinh tế để đất nước phú cường và đời sống  người dân phải có tự do, dân chủ.

Nguyễn Quý Đại

Tài liệu tham khảo

Lịch sử Đà Nẵng – nhà văn  Võ Văn Dật  (Việt Nam California  2007)

Non nước xứ Quảng – Lê Minh Quốc (nhà xuất bản Trẻ Việt Nam 2002)

Quảng Nam Trong lịch sử Trần Gia Phụng NxB Non nước  Toronto 2003

Tích tài liệu về Đà Nẵng

Từ 10/1955 đến 29/3/1975

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập thị xã Đà Nẵng gồm 3 quận với 18 khu phố (tương đương với phường).

– Quận I: gồm 9 khu phố: Xương Bình, Phước Ninh, Thiệu Bình, Hải Châu, Thạch Thang, Nam Dương, Hòa Thuận, Bình Thuận, Nại Hiên.

– Quận II: gồm 10 khu phố: Thạc Gián, Hà Khê, An Khê, Phú Lộc, Phục Đán, Chính Trạch, Xuân Đán, Tam Tòa, Thanh Khê, Xuân Hòa.

– Quận III: gồm 9 khu phố: An Hải, Mân Quang, Cổ Mân, Nam Thọ, Mỹ Khê, Phước Trường, Nại Hiên Đông, Tân Thái, Thượng Nghĩa.

31-7-1962

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra sắc lệnh 162-NV chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam có 9 quận, 1 thị xã, 144 xã. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hội An. Tỉnh Quảng Tín có 6 quận, 1 thị xã, 89 xã. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Tam Kỳ.

Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, chính quyền cách mạng tỉnh Quảng Nam chấp hành Nghị quyết của Khu ủy V, chia Quảng Nam thành hai tỉnh mới để tiện việc tổ chức, chỉ đạo, đối phó với âm mưu của địch.

Phía bắc là tỉnh Quảng Đà gồm 5 huyện (Hòa Vang, Đại Lộc, Thống Nhất, Điện Bàn, Duy Xuyên), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An.

Phía nam là tỉnh Quảng Nam gồm 6 huyện (Quế Sơn, Nam Tam Kỳ, Bắc Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà Sơn).

11-1967

Khu ủy V ra quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà.

6-1-1973

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra nghị định giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã, gồm 12 ủy viên, do một thị trưởng đứng đầu.

– Quận I: gồm 7 phường: Triệu Bình, Xương Bình, Thạch Thang, Hải Châu, Nam Phước, Bình Hiên, Hòa Thuận.

– Quận II: gồm 5 phường: Chính Gián, Thạc Gián, An Khê, Thanh Lộc Đán, Hà Tam Xuân.

– Quận III: gồm 7 phường: Nam Thọ, Mân Quang, Mân Thái, An Hải Tây, Phước Mỹ, Nại Nghĩa, An Hải Bắc.

[1] / Sau hiệp định Genève (20.7.1954) Hoa Kỳ quyết định ủng hộ VNCH để chận đứng làn sóng cộng sản và Trung cộng. Ngày 08.03.1965, tiểu đòan 3 thuỷ quân lục chiến thuộc lữ đoàn 9 Hoa Kỳ đầu tiên đổ bộ lên bãi biển Xuân Thiều (Nam Ô) thuộc xã Hoà Hiệp, huyện Hoà Vang nay thuộc quận Liên Chiểu Đà Nẵng, cùng ngày tiểu đoàn thứ 2 được không vận từ Nhật đến sân bay Đà Nẵng. Sau đó hơn nửa triệu quân Đồng Minh vào Việt Nam giúp VNCH chống cộng sản. Cuộc chiến kéo dài gần 30 năm khoái lửa, bom đạn tàn phá quê hương, Người Mỹ vì quyền lợi của nước Mỹ nên Hiệp định Paris ký ngày 07.01.1973 Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, bỏ mặc người bạn đồng minh VNCH cho đến ngày bức tử 30.4.1975

Theo dư luận, tuần dương hạm Trịnh Hòa 鄭和 Zhèng Hé/ Cheng Ho đến cảng Đà Nẵng từ 18 đến ngày 22.11.2008 từ đó đã có nhiều vụ căng thẳng xảy ra trong khu vực thềm lục địa biển Đông Việt Nam bị ảnh hưởng, đang vào vụ cá nam mà mấy trăm tàu tại chợ cá Thọ Quang và cảng cá Đà Nẵng phải đậu bến vì lệnh của Tàu Cộng cấm đánh bắt cá ba tháng ở biển Đông? Hải quân Trung Cộng giống như bọn cướp biển, ăn cướp cá của ngư dân, thường gây tai nạn đe dọa ngư dân Việt Nam  trong khi đó đảng CSVN chỉ lên tiếng lấy lệ. Dâng biển cho bọn Tàu cộng để thụ hưởng quyền lợi, không chú ý đến quyền lợi dân tộc và đất nước !

[2]  Theo một số sử gia thì trước khi các linh mục Dòng Tên do Cha Buzomi dòng Phanxicô dẫn đầu, đến Hội An và các vùng phụ cận để chính thức tổ chức công cuộc truyền giáo ở Ðàng Trong (1615). Năm 1625 đạo Công Giáo được rao giảng khắp các xứ lớn ở miền Nam… Một điều khác là sử liệu cũng cho chúng ta biết là nhà thờ Trà Kiệu đã có trước thời 1681 – 1682 đã được các Cha dòng Phanxicô cai quản cho đến khoảng năm 1810 mới bàn giao lại cho các Linh mục thừa sai Hội Truyền Giáo nước ngoài Ba-lê (MEP) (lịch sử giáo xứ Trà Kiệu)

 

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

NGƯỜI CÒN NHỚ HAY QUÊN ?

TƯỞNG NIỆM NGÀY GIỖ THỨ 5 CỦA Dr. RUPERT NEUDECK

Người Sống thanh đạm, hoạt động cao cả

Rất nhiều người đã cho rằng: Chúa Giêsu và triết gia người Pháp Albert Camus (1913-1960†) là hai thần tượng của Dr. Rupert Neudeck, xuyên qua dụ ngôn „Người Samirita nhân hậu“ trong Kinh Thánh và „huyền thoại Sisyphos“ của Albert Camus, người đoạt giải Nobel văn học qua các sáng tác của ông đã đưa ra ánh sáng những vấn đề phải đặt ra cho lương tâm loài người trong thời đại này. 77 năm trên dương thế của Dr. Neudeck đều được tóm gọn trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa với lòng nhân hậu cứu độ tha nhân, bất chấp bất cứ chống đối nghịch cảnh nào, không khác gì một Sisyphos nhỏ bé phải lăn một tảng đá tròn khổng lồ lên đỉnh một ngọn núi dốc cao chót vót. Suốt cuộc đời hành sự nhân đạo cứu người của ông đều được phát xuất từ tinh thần bác ái Thiên Chúa Giáo, cộng với ý tưởng nhân bản qua lời của Albert Camus : „ Con người không phải xấu hổ khi mình đang được hưởng hạnh phúc, nhưng họ sẽ phải xấu hổ khi chỉ biết giữ lấy hạnh phúc đó cho riêng mình.

 

 

 

Sống nhân đức, khổ hạnh, tự nghiêm khắc với chính mình, rất giản dị, hiền hoà và có đầu óc  khôi hài dí dỏm, nhưng lại có những suy nghĩ táo bạo khác người, bướng bỉnh, nhiều khi độc đoán, thẳng thắn chỉ trích chống đối, lì lợm và liều mạng, dám nói dám làm những gì mà người khác chưa nghĩ đến hoặc không dám nghĩ đến: đó là 2 con người đối nghịch trong cùng một con người mang tên Rupert Neudeck, nhưng ông lại thành công trong hầu hết những công việc nhân đạo mà ông muốn thực hiện, khiến những kẻ chống đối đả kích ông trước đây, sau này đều phải cảm phục kính trọng ông.

Trong suốt quá trình cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn VN từ năm 1979 đến năm 1988, Dr. Rupert Neudeck là người đứng mũi chịu sào trước những chống đối mãnh liệt của hầu hết các chính trị gia trong chính quyền Đức thời đó. Bây giờ, 37 năm đã trôi qua và Dr. Rupert Neudeck cũng không còn nữa, tôi xin kể vài câu chuyện rất ít người biết sau hơn 34 năm học hỏi theo gót chân ông, để tưởng nhớ đến ông và cũng để chúng ta thấy được con người của ông với những táo bạo liều lĩnh và tấm lòng nhân hậu của ông đối với các thuyền nhân tỵ nạn VN cũng như người tỵ nạn trên thế giới nói chung.                                                            

Ông chỉ trích thẳng thừng chế độ quan liêu cứng ngắc của chính quyền Đức và sự thờ ơ của các chính trị gia Đức thời đó. Mặc dù là người tu xuất theo Dòng Tên (Jesuits), một tín đồ Công Giáo thuần thành, sau này ông vẫn phê bình cả Giáo Hội Công Giáo Đức là quá hoang phí tiền của để sửa sang nhà thờ, trưng bày hoa nến một cách xa hoa, hay chỉ biết ngày đêm cầu nguyện trong phòng kin mà không thực sự bằng hành động cứu giúp tha nhân đang khốn cùng chết chóc, nghèo đói vì chiến tranh hay thiên tai. Ông kêu gọi phải chấm dứt việc này vì theo ý ông, đó chính là Giáo Hội Công Giáo của ngày mai. Ông cũng không tán thành việc thu thuế nhà thờ từ các tín đồ Thiên Chúa Giáo mà ông cho rằng đó là một trong những nguyên nhân giới trẻ Đức bỏ đạo. Bù lại, ông vui mừng và hãnh diện là thuyền nhân tỵ nạn VN đã đóng góp cho Giáo Hội Công Giáo Đức hơn 10 vị Linh Mục và nhiều tu sĩ nam nữ, thí dụ chỉ trong một ghe tỵ nạn được cứu vớt vào đầu năm 1982 đã có đến 3 vị Linh Mục, 2 hiện ở Đức và 1 ở Úc. Ông còn can đảm công khai chỉ trích và lên án chính sách chà đạp nhân quyền của chính phủ Do Thái đối với người Palestine, một việc mà giới truyền thông Đức không bao giờ dám làm mà chỉ đưa tin và không bao giờ dám phê bình chỉ trích.

 

Hai lần con tàu Cap Anamur bắt buộc phải chấm dứt trở về cảng Hamburg là hai lần đã cứu vớt đủ số lượng thuyền nhân tỵ nạn VN đã được chính quyền Đức phê chuẩn chấp nhận vào định cư tại Đức. Ông đã liều mạng bất chấp luật lệ và hậu quả, ra lệnh cho chúng tôi mỗi lần trước khi trở về phải kéo dài thêm thời gian tìm cứu người vượt biển và cố gắng vớt thêm được càng nhiều càng tốt. Chính vì thế mà lần thứ nhất, tháng 5 năm 1982, chuyến cuối cùng của tàu Cap Anamur I đã mang theo 178 thuyền nhân tỵ nạn cập cảng Hamburg, trong khi con số được chấp thuận chỉ còn vỏn vẹn vài chục. Rồi đến tàu Cap Anamur II sau hơn 3 tháng hoạt động đã phải trở về Hamburg vào tháng 6 năm 1986 với 357 thuyền nhân, trong khi chỉ còn hơn 100 được chấp thuận trước đó. Ông đã mạo hiểm cố tình đẩy chính quyền Đức lúc bấy giờ vào thế tiến thoái lưỡng nan, bắt buộc phải nhận thêm số người thặng dư này vì cả hai con tàu đều mang quốc tịch Đức và cảng mẹ cũng tại Đức (theo luật tỵ nạn LHQ lúc bấy giờ). Cũng trong thời gian này, chính quyền Đức đã hai lần trao tặng ông Huân Chương Danh Dự (Bundesverdienstkreuz), loại huân chương cao quý nhất của Đức; Hai lần ông đều từ chối và sẵn sàng đổi 2 huy chương đó lấy 2 chuyến tàu tiếp tục đi vớt thuyền nhân tỵ nạn VN.

Khi các trại tỵ nạn đóng cửa không tiếp nhận thuyền nhân cùng với chương trình thanh lọc và cưỡng bức hồi hương, thì năm 1989 ông lại âm thầm cho ra khơi liên tiếp 2 con tàu (tháng 6 Cap Anamur IV và tháng 10 Cap Anamur V) với hai mục đích là đánh đuổi bọn hải tặc Thái Lan và giúp đỡ hướng dẫn thuyền nhân VN cập đảo. Đây là một hành động đi ngược lại luật lệ, ngược lại chính sách của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ và các chinh quyền đang có trại tỵ nạn tại Đông Nam Á thời bấy giờ. Mỗi khi phát hiện được ghe vượt biển, chúng tôi đưa họ lên tàu, câu luôn cả chiếc ghe. Các thủy thủ có nhiệm vụ kiểm soát an toàn cho chiếc ghe hoặc sửa chữa máy nếu bị hư hại. Các nhân viên y tế khám sức khỏe, phát thuốc và chúng tôi phân phát lương thực cho mọi người. Tất cả đều được đựng trong những túi nylon hoặc chai bằng nhưa, không nhãn hiệu, không xuất xứ để tránh có thể bị phát hiện sau này. Thuyền trưởng có nhiệm vụ chọn ngày giờ tối đen nhất, không trăng sao, tắt tất cả đèn tàu trên boong, lái tàu tiến vào chỗ gần bờ nhất, rồi câu ghe xuống. Chúng tôi dùng đèn pin đưa từng người xuống ghe, giao tận tay anh tài công 1 búa tạ lớn và 1 súng bắn hỏa pháo, dặn dò khi vào đến bờ phải đập tan nát ghe và máy ghe, rồi bắn hỏa pháo để chúng tôi biết được họ đã an toàn cập bờ. Vừa nhìn thấy hỏa pháo, thuyền trưởng tức khắc cho tàu chạy ra xa, chờ khi trời vừa sáng lại tiến vào chạy ngay bờ quan sát. Không cần ống nhòm chúng tôi cũng thấy được chiếc ghe đen đậm màu vỡ nát trên bờ cát trắng với tiếng reo hò của những thuyền nhân trong trại thức sớm. Cứ thế, hơn một chục chiếc ghe cập bờ với hàng trăm thuyền nhân được bình an do quyết định âm thầm đầy táo bạo và liều lĩnh của Dr.Rupert Neudeck ! Chúng tôi âm thầm ra đi và yên lặng trở về, giới báo chí truyền thông cũng chẳng hay biết gì.

Phải nói rằng, nơi nào trên thế giới có chiến tranh khốc liệt nhất, người dân bị đầy đọa khốn cùng nhất, nơi nào không ai dám đến nhưng cần phải được cứu giúp thì đều có mặt Dr. Rupert Neudeck, bất chấp hiểm nguy, bất chấp luật lệ. Vào cuối thập niên 80, Nga Sô xua quân xâm chiếm Afghanistan và tàn sát dã  man, khiến hàng trăm ngàn người dân vô tội tỵ nạn phải trốn chạy vào các hang hóc trong những dẫy núi hiểm trở tránh bom đạn, không nước uống, không thực phẩm, không thuốc men….Năm 1986, ông đơn thân độc mã với bộ ….Năm 1986, ông đơn thân độc mã với bộ âu hàm, quấn khăn phủ đầu, cưỡi con lừa tả tơi không khác một tín đồ Hồi Giáo đi vào vùng kháng chiến quân Afghanistan (Mudschaheddin) chống quân xâm lăng Nga Sô gần biên giới Pakistan để quan sát và giúp đỡ thực phẩm thuốc men cho họ. Lần đó, đoàn của ông bị trực thăng Nga Sô phát hiện và bắn đuổi bằng súng máy và hỏa tiễn. Ông phải trốn chạy hơn 30 tiếng đồng hồ mới thoát qua được biên giới Pakistan. Hai người trúng đạn và 1 con lừa bị đạn. Sau này ông kể lúc đó ông nghĩ mình sẽ không thoát khỏi cái chết nát thây, nhưng ông vững tin vào Thiên Chúa, nhớ về ba người con còn nhỏ dại và như một phép lạ, ông đã thoát chết trở về bình an.

Năm 1987 tại Uganda, nhà độc tài quân phiệt Milton Obote tàn sát tập thể dân chúng khiến họ phải chạy trốn đến biên giới Süd-Sudan, ông cũng có mặt tại đây và bị bọn lính chĩa súng bắt phải uống rượu trước khi chúng thả ông.

 

Năm 2001, khi nước Đức và nhiều quốc gia Âu Châu đang khủng hoảng vì bệnh dịch thịt bò (BSE), dân chúng sợ hãi căn bệnh chết người không dám ăn và hàng trăm ngàn con bò bị thiêu hủy không cần biết chúng có bị nhiễm hay không, trong khi người dân CS Bắc Hàn đang chết đói hàng loạt vì thiếu lương thực. Ông mướn ngay một tàu hàng chở theo hàng trăm con bò chưa/không nhiễm bệnh từ Âu Châu cứu đói người dân CS Bắc Hàn. Cho đến nay, tôi cũng không biết làm cách nào ông được phép mua lại những con bò ấy, tại sao chính quyền Đức cấp giấy phép cho ông và lý do gì một quốc gia CS khắc nghiệt Bắc Hàn lại đồng ý cho một con tàu viện trợ từ một quốc gia Âu Châu cập cảng. Ông chỉ cười và nói rằng, đây là căn bệnh cố hữu của dân tư bản nhà giàu, họ luôn…sợ chết, mà dân Bắc Hàn có ai chết vì thịt bò ông cứu trợ đâu ?

Trong khi đang thực hiện công tác cứu vớt thuyền nhân Việt Nam ngoài biển Đông thì miền Bắc Việt Nam, tỉnh Thanh Hóa bị thiên tai lụt lội nặng nề khiến hàng trăm ngàn dân Việt lâm cảnh đói khát màn trời chiếu đất. Tháng 01 năm 1981, ông tức khắc thuê một chiếc tàu chở 1.000 tấn gạo đến Thanh Hóa cứu đói và nhân viên của Ủy Ban Cap Anamur đã tự tay phân phát cho từng gia đình. Chuyện này đã gây xôn xao lúc bấy giờ do một nhóm người Việt tại Đức lên án ông rằng: “ông vừa cứu người tỵ nạn CS nay lại cứu giúp cả người Cộng Sản !!!“

Ông nhắn nhủ người Việt rằng. „…chúng ta đang sống trong thế kỷ thứ 20 !“

Tháng 5 năm 2013 trong khi cứu trợ người tỵ nạn tại Syrien, 3 thành viên người Đức của ông trong tổ chức „Hội Mũ Xanh“ bị phiến quân bắt cóc. Ông không sợ hãi hay nản lòng, không yêu cầu chính phủ can thiệp, không thông tin với báo chí mà tự giải quyết với năng lực và sự khôn khéo của mình. Cuối cùng cả 3 thành viên đã tự giải thoát trở về sau gần 3 tháng bị cầm tù.

 

Những câu chuyện trên cho người ta thấy rõ được con người nhân đạo quyết liệt của Dr.Rupert Neudeck: cứu sống sinh mạng con người phải cấp tốc tức khắc, không chần chừ do dự, không sợ hãi, không ràng buộc luât lệ, không tính toán hơn thiệt, không câu nệ phương thức, không phân biệt màu da, không phân biệt chính kiến…vì theo ông, tất cả đều là con người, và mỗi người đều có trách nhiệm hỗ trợ và cứu giúp lẫn nhau để cùng chung sống an bình.

Người ta vẫn không giải thích được, từ đâu và tại sao, một con người mang tên Dr.Rupert Neudeck, với đôi mắt luôn luôn suy tư, mũi to sần sùi với bộ râu trắng phau quanh hàm, một con người làm việc không ngừng nghỉ bất chấp thời gian và không gian, một con người lặn lội khắp nơi, bất chấp khó khăn hiểm nghèo… lại là một con người có một cuộc sống khổ hạnh, gầy còm, da bọc xương nặng chưa đầy 50 ký, ăn mặc giản dị, luôn luôn với cái túi xách lòng thòng trên vai, nhưng lại làm được những việc mà ít ai có thể làm được. Nhiều người phỏng vấn ông, ông trả lời: “Nói thật lòng, đây là một câu hỏi duy nhất mà tôi không có câu trả lời.“ Nhiều nhà báo đã mô tả ông là „một cụ già trên 70 nhưng mang một thân xác của chàng thanh niên 18….gầy còm ốm đói“.

Tôi không tài nào quên được lần tháp tùng ông về Việt Nam sửa soạn cho hai dự án xây dựng nhân đạo tại Đồng Tháp Mười và U Minh (2006 và 2007) qua đóng góp tài chánh của cựu thuyền nhân VN tại Đức. Ông chọn hãng máy bay thật rẻ, giờ giấc bật tiện và phải chờ đổi chuyến bay rất lâu. Hành trình Frankfurt-Saigon kéo dài đến hai ngày trời vì phải chờ đổi chuyến bay tại xứ CS Bắc Hàn (Pjöngjang-Bình nhưỡng) 10 tiếng đồng  

 

Năm 1987 sau khi con tàu Cap Anamur III về Pháp, nhiều đoàn thể tổ chức người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ (sau này là Úc và Canada), đã nhiều lần mời Dr.Rupert Neudeck và một số vị ân nhân khác của thuyền nhân tỵ nạn VN sang Hoa Kỳ để vinh danh, đồng thời quyên góp cho những công tác cứu người vượt biển của ủy ban Cap Anamur và tổ chức Medicins du Monde của Pháp do ông Bernard Kouchner và Alain Deloche lãnh đạo. Dr.Rupert Neudeck luôn luôn từ chối không tham dự mặc dù tôi cố gắng đốc thúc. Ông suy nghĩ khác, vì theo ông, vinh danh là thừa thãi vô ích, ông không thích được vinh danh và ông muốn tôi nói với người Việt bên Hoa Kỳ rằng, nước Mỹ phải có trách nhiệm với thuyền nhân VN và người Mỹ gốc Việt  có dư thừa điều kiện và khả năng sao không vận động cho ra một con tàu như ông để tự cứu chính dân tộc mình !!!

cầu chuyển chi phí khách sạn cho hai tổ chức của ông. Bất cứ đi đâu trong nước Đức ông đều đi xa lửa và có vẻ thích thú khoe với tôi rằng ông có vé xe lửa bớt 50% nên rẻ lắm. Mỗi lần có việc lên Hamburg hay vùng Bắc Đức ông đều nghỉ đêm trong nhà tôi. Ngại ông không hợp thức ăn VN, tôi mời ông đến nhà hàng. Không những ông từ chối mà còn không cho vợ tôi nấu nướng gì rồi tự xuống bếp, khi thì chọn hộp xúp gà với nui, khi thì ăn miếng bánh mì lát chấm với súp thịt hộp Gulasch và một ly nước suối, nói chuyện dăm câu rồi đi ngủ. Lần nào ông cũng thức giấc rất sớm, uống vội tách cà phê không đường, đem theo một chai nước suối nhỏ, ít lát bánh mì và một trái táo, đủ làm hành trang cho một ngày của ông. Tôi chở ông đến trạm xe lửa, khi thì đi Bá Linh, khi thì Stuttgart, München hoặc nơi nào đó vì ông liên tiếp có những cuộc hẹn quan trọng. Nhiều lần vào mùa đông, buổi sáng giá rét, ông mượn tôi chiếc áo len để mặc vì vội đi nên quên. Có lần trước khi chở ông đến đài truyền hình ARD, tôi chợt thấy ông choàng chiếc khăn quấn cổ màu xanh của hội đá banh FC Schalke 04. Ông giật mình cởi ra ngay rồi hỏi mượn tôi chiếc khăn khác. Ông bảo có một thanh niên Đức gần nhà ông, biết ông là Fan của hội bóng đá này nên mang đến tặng ông và khi đi ông vơ đại chiếc khăn đó choàng vào cổ. Tôi nghĩ đá banh là sở thích của ông, nhưng ông lại bảo, ông chưa từng đi xem đá banh, kể cả trên truyền hình. Tôi nghĩ sở thích của ông là…“làm việc nhân đạo, cứu giúp người tỵ nạn“.

Một lần khi sửa soạn tổ chức đại hội Cap Anamur tại Troisdorf, ông bảo tôi và một số anh em trong ban tổ chức ghé nhà ông nghỉ đêm. Vì mang sẵn túi ngủ nên chúng tôi xin ngủ trên sàn nhà trong phòng khách. Ông bà và con cái ngủ hết trên lầu. Đang đêm khuya có ai bật đèn, chúng tôi choàng dậy thấy ông mặc quần áo lót trắng cụt ngủn, tay ôm chiếc gối vuông, lum khum lần mò trong ánh sáng ngọn đèn mờ. Ông bảo ông đang tìm chỗ ngủ và nói chúng tôi xích gọn lại cho ông nằm chung, vì tối hôm ấy bà Neudeck cũng rủ một người bạn gái bác sĩ trong Cap Anamur về nhà. Ông bảo ông không thể nằm chung một phòng với cả hai người đàn bà. Trong khi chúng tôi thì thầm với nhau vừa buồn cười vừa thấy kính mến vô vàn một con người nổi tiếng trên toàn thế giới lại bình thường và giản dị đến thế… thì ông đã ngáy khò khò ngủ say bên cạnh từ lúc nào. Chắc các anh em này vẫn không thể quên được đêm hôm ấy.

Cũng có lần tôi hướng dẫn một số anh chị em đến nhà ông để bàn họp. Vợ tôi vì đã quen nhà ông nên rủ vài chị đi pha cà phê và nước trà. Gia đình ông vẫn xử dụng bình pha cà phê thời thập niên 80, cái máy cũ rích kêu rồn rột như vòi nước bị nghẹt. Cả một ngăn tủ ly tách hiệu Ikea thì đủ màu, đủ kiểu, đủ cỡ không có cái nào giống cái nào, cứ như ngoài chợ trời. Một chị khệ nệ bưng khay cà phê vừa đi vừa nói tiếng Việt: „Quý vị coi chừng nhé, uống cà phê phải để ý coi chừng bị rách môi đó“ vì chị thấy nhiều ly tách bị mẻ miệng. Tuy thế, ông rất vui tính và dí dỏm.

Một nhà báo Đức hỏi ông tại sao mỗi lần ông xuất hiện thì có hàng trăm người VN xếp hàng nối đuôi nhau muốn chụp ảnh với ông, ông trả lời: „Bạn không biết sao ? Tôi là người được chụp ảnh nhiều nhất nước Đức đến nỗi các ông bà chính trị gia phải phát ghen lên đấy!“.

Khoảng 15 năm trước, trong một lần ghé thăm gia đình ông, bà Christel Neudeck bới trong đống cây cỏ héo ngoài góc vườn nhỏ chỉ cho chúng tôi một đầu người được đúc bằng đồng rất nặng. Một điêu khắc gia nổi tiếng tại Đức vì cảm phục và quý mến ông nên đã khắc và đúc tượng đầu của Dr.Rupert Neudeck và chính tay mang đến tặng gia đình ông bà và bà miễn cưỡng phải nhận. Bức tượng rất đẹp và rất giống ông. Bà Neudeck cũng …dị đoan, thắc mắc nói với chúng tôi rằng, chồng bà vẫn còn sống, sao lại có người mang đến tặng như thế, nên bà đem ra dấu ở góc vườn dưới đám lá khô. Bà bảo chúng tôi mang về nhà và phải hứa khi… „hữu sự“ thì phải mang trả lại cho ông…Nhưng thật lòng chúng tôi không bao giờ muốn trả lại cho ông !

Cách đây vài năm ông bị mổ tim lần thứ nhất. Khi tỉnh dậy ông mới biết vị bác sĩ mổ tim cứu sống ông lại là một thuyền nhân VN được tàu Cap Anamur cứu sống gia đình anh, khi anh mới được 3 tuổi. Ông nắm tay vị bác sĩ này và nói : „Năm xưa tôi cứu sống anh và người VN, năm nay anh cứu sống tôi, như thế người Việt tỵ nạn và  tôi huề với nhau, chúng ta không ai còn nợ nần ai nữa !“.

Ông nhiều lần kể cho tôi những chuyện thật hy hữu với khuôn mặt rạng rỡ thích thú rằng, một lần sau khi dự hội nghị về người tỵ nạn thế giới của Cao Ủy Liên HIệp Quốc (UNHCR) tại Hoa Thịnh Đốn, ông gọi một chiếc  taxi. Anh tài xế vừa lái vừa ngoảnh cổ nhìn ông hỏi: „Ông có biết ông Neudeck ở bên Đức không?“, ông cười và trả lời „Ông ta là ai? Tôi không biết“. Anh taxi hơi ngượng nói lại: „Tôi nhìn ông sao giống ông Neudeck quá, ông ấy cứu vớt tôi từ ngoài biển đấy !“.  Cả hai cùng cười…để rồi anh taxi nhất định không nhận tiền ông. Ông nói với tôi : „Thì ra cuốc xe này đáng giá cả một mạng người.“

Có lẽ trong thời gian cuối đời, niềm an ủi thảnh thơi nhất của ông là quây quần đùa nghịch với 5 đứa cháu nội ngoại. Ông không muốn bất cứ ai  quấy rầy ông trong thời gian đàn cháu nội ngoại đến thăm  ông. Tôi đã từng chứng kiến cảnh tượng một ông già gầy tong teo gập chân quỳ xuống bò rạp trên sàn làm con ngựa già để đứa cháu 3 tuổi cưỡi quanh nhà. Chính đứa cháu này đã muốn hóa phép cho ông sống lại nhưng không tìm được cây đũa thần – như bà Neudeck rưng rưng kể lại. Ít người biết được là ông bà Dr.Rupert Neudeck có những liên hệ mật thiết với rất nhiều nhân vật quan trọng và chính trị gia nhiều quyền lực khi xưa và đương thời. Có ai biết rằng sau hai lần tái nhiệm chức vụ thủ tướng nước Đức (2009-2013 và 2013-

2017), bà Angela Merkel đều mời ông bà Dr.Rupert Neudeck đến tư gia trò chuyện. Các vị cựu chủ tịch quốc hội Đức như bà Rita Süssmuth và ông Wolfgang Thierse, cựu Tổng Thống Đức ông Johannes Rau (†75), đương kim bộ trưởng tài chánh Đức ông Dr. Wolfgang Schäuble, cựu chủ tịch đảng SPD cũng là cựu phó thủ tướng Đức ông Franz Müntefering, cựu phó chủ tịch liên đảng CDU/CSU tại quốc hội Đức ông Arnold Vaatz, cựu giám đốc cơ quan tình báo và bộ trưởng ngoại giao Đức ông Klaus Kinkel… nhiều thống đốc tiểu bang hay cựu bộ trưởng liên bang Đức như ông Dr.Ernst Albrecht (†84), bà Sabine Leutheusse-Schnarrenberger, ông Gerhard Rudolf Baum, ông Dr.Norbert Blüm…. và rất nhiều vị khác kể không hết, trong đó phải nhắc đến bà Marion Gräfin Dönhoff (†93 sáng lập tuần báo Die Zeit) và ông Karl-Heinz Böhm (†86 tài tử điện ảnh Áo, với nhiều hoạt động nhân đạo tại Phi Châu). Tất cả đều là bạn bè thân hữu sát cánh bên ông. Ông coi cựu phó tổng thống Đức gốc Việt Philipp Rösler như một người con và rất thích thú khi ông này biết và hiểu rất rành mạch về thuyền nhân tỵ nạn VN. Ông Peter Scholl-Latour (†90,nhà báo nổi tiếng, trước đây ủng hộ việc gởi con tàu „Cap Anamur“ cứu vớt thuyền nhân VN của Dr. Rupert Neudeck, sau này lại hỗ trợ ông qua mục đích nhân đạo của „Hội Mũ Xanh“), hay ông Günter Grass (†88, văn hào với giải Nobel văn chương) cho đến khi qua đời vào tháng 4 năm 2015 cũng đều là bạn đồng hành với ông. Ngay đến ông Aiman A. Mazyek (chủ tịch hội đồng trung ương Muslime tại CHLB Đức) và ông Musa Ataman (chủ tịch cộng đồng Kurden tại Bonn) cũng đã từng cộng tác và ủng hộ ông.

trước quên sau. Ông mệt mỏi đi xuống và nói tôi lấy cho ông một ly nước suối. Bà Christel Neudeck thay ông trả lời phỏng vấn của giới truyền thông hoặc cám ơn quan khách đến chia vui cùng ông bà. Trước đó, ngày 30 tháng 01 năm 2016, ông tham dự ngày hội Tết Nguyên Đán Bính Thân của người Việt tỵ nạn tại Bielefeld. Ông cảm thấy mỏi mệt, tức ngực và khó thở nên đi ra khỏi phòng và yêu cầu tôi chở ông về, trong khi chương trình vẫn còn đang tiếp tục. Chính bà Christel Neudeck đã nhiều lần lo lắng và cảnh cáo ông, nhưng ông vẫn nói mình còn rất nhiều việc phải làm.

Dr.Rupert Neudeck lần đầu tiên bị mổ tuyến tiền liệt (Prostata) khoảng 2 tuần trước lễ khánh thành bia ty nạn thuyền nhân VN ngày 28 tháng 4 năm 2007 tại Troisdorf, nơi gia đình ông cư trú. Ông gắng gượng lững thững một mình lái xe đạp đến tham dự và tuyên bố rằng: „Troisdorf chính là thủ đô của người Việt tỵ nạn tại Đức“.

Cũng hai tuần trước đại hội Công Giáo VN tại Đức kỳ thứ 40 tại Aschaffenburg từ 14 đến 16 tháng 5 năm 2016, ông phải nhập viện mổ tim lần thứ 3 chỉ trong vòng 4 năm sau này. Lần này ông không đến tham dự được và nằm hôn mê trên giường bệnh cho đến khi lìa đời lúc 8 giờ sáng ngày 31 tháng 5 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi (*1939-†2016). Có những lúc ngón tay ông đã cử động, cũng có những lúc ông đã mở mắt nhìn vợ và con cháu mình và gật đầu khi được hỏi ông có muốn nghe nhạc Mozart không. Những niềm hy vọng chợt lóe lên trong sự mong đợi khát khao của gia đình, nhưng ai ngờ đâu đó chỉ như ngọn nến chợt bừng sáng trước khi thật sự lịm tắt. Ông đã thật sự vĩnh viễn ra đi.

Lễ mai táng ông được tổ chức âm thầm và giản dị trong gia đình và thân hữu vỏn vẹn chưa đến 30 người vào ngày 08 tháng 6 năm 2016. Quan tài dành cho ông là 6 miếng ván gỗ thô, không sơn màu, không chạm trổ, không hoa không nến, nằm cô đơn dưới bậc thềm Cung Thánh trong ngôi nhà thờ nhỏ gần nhà ông. Con cái và thân nhân ông tự khiêng ông đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ tại Troisdorf.

Người thân vĩnh biệt ông với từng nắm đất và bằng những cánh hoa dại mọc bên đường do các con ông nhặt về. Giữ đúng lời hứa với bà Christel Neudeck trước kia, tôi kính cẩn đặt tượng đồng khắc đầu ông trên mộ.

            Nơi an nghỉ cuối cùng của một con người suốt đời xả thân cứu giúp đồng loại.

 

 

 

 

Không những người Việt tỵ nạn thương tiếc ông mà người dân Đức cũng bày tỏ lòng quý mến một con người đã thay đổi được bộ mặt của nước Đức qua nhiều hành động khác nhau. Trên một chuyến xe lửa trong thành phố Koeln ngay trong ngày lễ tưởng niệm ông (14.6.2016) có người đã viết trên 1 toa xe dòng chữ „R.I.P. Rupert Neudeck“ (Rest IPeace – Rupert Neudeck – Yên Nghỉ Trong An Bình).

 

 

 

Một tấm hình khác xuất hiện trên Internet cho thấy hình con tàu nhân đạo Cap Anamur được xâm trên đùi một thanh niên Việt Nam như một ghi nhớ con tàu này đã cứu sống anh.

Dr. Rupert Neudeck ra đi với nhiều ước mơ chưa trọn vẹn. Ông ước mơ một thế giới an bình không chết chóc chiến tranh. Ông ước mơ tiếp tục cứu giúp người tỵ nạn trên thế giới. Ông ước mơ ngày nào đó sẽ chạy Marathon trên suốt giải Gaza tại Palestine. Ông ước mơ đi trên chuyến xe lửa xuyên hết đất nước Sudan. Ông ước mơ học tiếng Việt và tiếng Á Rập và ông ước mơ mình sẽ sống tại Phi Châu trong những tháng năm cuối đời….

Kính thưa ông Dr.Rupert Neudeck,

cho dù bây giờ ông có thể sống tại Phi Châu hay Palestine, hay trên bất cứ đất nước nào như trong mơ ước của ông, nhưng có một điều chắc chắn rằng, ông vẫn còn sống mãi trong lòng những người tỵ nạn VN chúng tôi và tất cả mọi người trên thế giới.

 

 

 

 

Nguyễn Hữu Huấn

Để tưởng nhớ Dr.Rupert Neudeck

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

Chương Mười

Sáu mươi bảy người tập trung một phòng dưới ô để làm các thủ tục cần thiết để đi trại lao cải. Mọi người lo âu, băn khoăn vì sắp bước qua một giai đoạn mới trong cuộc đời tù tội. Căn phòng chật chội vẫn yên lặng, mỗi người ngồi thừ ra bên cạnh gói hành trang gồm ít áo quần và thức ăn còn lại của đợt thăm nuôi vừa qua.

Cơm chiều xong đa số đã đi nằm, chỉ có những người hút thuốc lào tụm lại với nhau thay phiên kéo chiếc điếu cầy, tiếng nước sôi sùng sục nghe rõ mồn một. Tôi lại nghĩ đến gia đình tôi, không biết thân nhân của tôi sống bằng cách nào trong hoàn cảnh càng lúc càng khó khăn. Qua gói quà gửi tôi hiểu gia đình đã sa sút lắm. Tôi không xin quà, để gia đình gửi cho tùy ý theo khả năng, đỡ cảm tưởng mình là gánh nặng cho thân nhân, vừa để có thể đo lường mức độ sinh sống ở nhà. Đã hơn mười sáu tháng rồi, tôi chưa gặp mặt vợ con. Nhớ lắm.

Hai phòng hình sự tập trung cũng chuẩn bị ra đi, anh em trẻ họ ca hát suốt đêm, hát giã từ thành phố để đi đến một nơi nào chưa ai biết, nhưng chắc chắn nhiều cam go. Có chịu đựng được không? Nghĩ đến ngày về xa vời vợi. Án tập trung là án dây thun, nó cứ dài ra mãi vì có tăng mà không có giảm án. Ngày về có thể ngày mai, mà có thể chục năm nữa, và có thể chẳng bao giờ.

Sáng sớm chúng tôi được gọi dậy ra ngồi ngoài sân, gần Tết trời lạnh se sắt, lạnh ngấm từ bên ngoài và cũng thoát ra từ bên trong, từ nỗi cô đơn và sự lo lắng.

Trại trưởng đến đọc lệnh tập trung, sơ yếu lý lịch và tội danh mỗi người để kiểm điểm lại lần cuối. Tôi bị ghi là tham gia tổ chức phản cách mạng, đúng như trưởng ban chấp pháp Năm Thành nói với tôi, không cần tôi nhận tội, không cần phải làm cung theo đúng thủ tục, không cần chứng minh tội trạng, công an giải thích “Đảng không bao giờ nhầm lẫn”, bị bắt là đương nhiên có tội, không tội này thì tội khác.

Không ai thắc mắc khiếu nại, chỉ uổng công, cán bộ không có thẩm quyền giải quyết. Chúng tôi được phát mỗi người một nắm cơm bằng quả bưởi và nhúm muối trắng cho một ngày ăn đường. Nhiều người thở ra nhẹ nhõm, ít ra cũng đỡ được một phần, chúng tôi đi cải tạo ở một trại gần Saigon.

Hai chiếc xe hàng chạy chầm chậm, buổi trưa mới tới trại Xuân Lộc. Trại nằm phía đông bắc núi Chứa Chan, từ ngã ba Ông Đồn trên quốc lộ 1 đi vào khoảng 4 cây số. Trại lập tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 53 Bộ Binh, bộ chỉ huy trại và phân trại A nằm ngay trên đồi Phượng Vĩ, phân trại B sâu vào rừng 2 km, và Việt Cộng đang xây thêm một trung tâm kiên cố gồm nhà xây tường đúc lợp tôle và có tường bao quanh.

Thời gian “Trăng mật” cũng qua nhanh. Tụi VC coi trại tù rất tâm lý, tù mới ở trại giam ra chúng cho làm việc nhẹ khoảng một tháng, ai cũng muốn được vận động, phơi nắng vì tù túng quá lâu trong phòng tạm giam nóng bức và ngộp thở. Chừng lao động được một tháng, chúng đưa vào những công tác chính như cuốc đất, xẻ núi làm đường đào ao, lúc đó tù nhân mới bắt đầu thấm mệt và hiểu thế nào là lao động cải tạo và chỉ mong được trở lại phòng tạm giam. Mỗi ngày làm việc quần quật, trên đất núi cứng như đá vôi, dụng cụ thô sơ, dưới trời nắng chang chang. Trưa và tối mỗi bữa một chén cơm độn khoai mì với nước muối, nên mới có hơn hai năm cải tạo mà những người trình diện trông đã tiều tụy lắm. Lương thực mỗi ngày cắt dần phần gạo, thời gian đầu ăn toàn cơm nhưng gạo hẩm, sau nửa cơm nửa ngô, rồi ngô được thay bằng khoai mì khô. Mức độ độn tăng dần theo thời gian, 50% độn, rồi 75%, 80% rồi đến cuối năm 1978 mỗi tuần trại Long Khánh chỉ ăn 2 bữa cơm, 12 bữa ăn còn lại chỉ ăn khoai mì khô. Phần gạo ít quá, không thể nấu chung với thức độn, anh em nhà bếp cũng kinh nghiệm hễ nấu chung với độn tên quản giáo nhà bếp ăn cắp nhiều gạo, nên họ đã nấu thành hai bữa cơm nguyên mỗi tuần còn ăn độn riêng để đảm bảo phần gạo ít ỏi của tiêu chuẩn. Cũng may là trại ở gần Saigon nên nhiều gia đình đi thăm nuôi đều đặn hàng tháng, nên kẻ có người không bạn bè còn chia sớt cho nhau để sống chung, thử thách với thời gian và gánh nặng gian khổ.

Sau 10 ngày ở trại lao động tôi được gia đình thăm. Chỉ mới xa cách 16 tháng mà vợ tôi trông già hẳn đi đến mấy tuổi và Thụy Vũ, đứa con trai mạnh khỏe bụ bẫm của tôi bây giờ trở thành đứa bé khẳng kheo. Mười mấy phút gặp mặt không đủ để hỏi thăm tin tức gia đình. Lần đầu được thăm nuôi, anh em đã có dặn trước, chuẩn bị trước những câu hỏi, khi gặp gia đình vẫn cứ lúng túng, có việc hỏi tới hai ba lần, còn có điều muốn hỏi lại quên đi, đến khi vào trại mới sực nhớ lại. Ba mẹ tôi ở Đà Nẵng đều khỏe mạnh, những đứa em trai tôi đều nghỉ học, đứa thì bị đại học gạt ra biên chế, đứa thì không được dự thi lớp 10. Học sinh thi theo lý lịch, mấy anh em tôi có 3 anh ở trong chính quyền và quân đội VNCH đương nhiên là lý lịch xấu, không được cấp giấy cho thi. Đời sống vợ con tôi đã rất bi đát; không còn cách gì để đủ ăn ngoài việc bán lần hồi những gì đang có kể cả quần áo cũ. Mong muốn con được đi học chắc không thành. Vợ tôi xác nhận Sào không bị bắt, hắn vẫn nhởn nhơ đi lại tại Saigon. Hắn đến nhà nói với vợ tôi là tôi sẽ không bao giờ về được vì tôi đã trốn trình diện mà còn tham gia tổ chức phản động.

Thành phần tù cải tạo ở trại Xuân Lộc lúc đó, phân biệt khá rõ, sĩ quan trình diện đa số là cảnh sát và sĩ quan biệt phái từ cấp Trung úy trở xuống. Tù chính trị mới đa số là thanh niên trẻ trong tổ chức Phục Quốc, một số rất ít tội vượt biên.

Cách biên chế đội, cách bố trí phòng ở và khu vực làm việc cũng nói lên sự phân biệt đó. Tù phản động biên chế từ đội 4 đến đội 10, ở trong các dãy nhà trung tâm phân trại, các đội trình diện ở các dãy nhà gần hàng rào hơn. Tại hiện trường lao động các đội trình diện làm gần bìa rừng, đội bị bắt làm khu vực giữa đồng.

Sự phối trí như vậy cho các anh sĩ quan trình diện cảm tưởng là họ nhẹ tội hơn và có thể được về sớm nên họ làm lao động rất hăng và kiểm soát lỏng lẻo vẫn không trốn trại. Cán bộ Việt Cộng giải thích sở dĩ các sĩ quan trình diện chậm được thả ra vì tình hình nội chính bên ngoài chưa ổn định, vẫn còn những tổ chức chống đối. Việt Cộng đã rất giảo hoạt khi chúng dồn sự oán thán chúng về phía những người đối kháng. Nhiều người đã dễ dàng tin sự giải thích đó, nên trong trại họ ít tiếp xúc với tù nhân bị bắt. Họ nghĩ là những người tù mới bị bắt là những người manh động, và tham vọng quyền lực mơ hồ. Về phía tù nhân bị bắt thì họ có sự kiêu hãnh riêng đối với hành động đối kháng của họ dù chưa làm cho Cộng Sản thiệt hại về người và vật chất, nhưng họ cũng chứng tỏ được tinh thần bất khuất của nhân dân miền Nam. Trong trại tù, họ thể hiện tinh thần đó qua cách lao động miễn cưỡng, lề mề. Lập trường của họ về lao động khác với bên tù nhân trình diện, họ không làm lao động tích cực như tù trình diện, xem sự tích cực lao động là hình thức đầu hàng. Họ không chịu ở trong các đội phục vụ cá nhân cán bộ. Xem đó là sự sỉ nhục. Họ ngấm ngầm phá hoại hoa mầu một cách có ý thức, vì hoa mầu là phục vụ trước hết đời sống cán bộ, còn lại mới cho tù. Trại trồng ngô, khi hái bắp, hái một bắp bỏ lại một hai bắp để đến khi đội có nhiệm vụ dọn cây lá có cái ăn. Tù trình diện coi việc làm của tù bị bắt là manh động, là “ruồi bu”, họ chưa thấy hành động chống đối nhỏ nhưng nó thể hiện được tính đối kháng hơn là thái độ phục vụ ngoan ngoãn làm đẹp trại theo khẩu hiệu và sự thúc đẩy của bọn cai tù.

Tập trung cải tạo là chính sách thực hiện chủ trương đấu tranh giai cấp của Cộng Sản để tiêu diệt và vô hiệu hóa thành phần khác giai cấp dù có đối kháng hay không. Về phương diện kinh tế, tập trung cải tạo để khai thác sức lao động; Việt Cộng không giết hàng loạt để tạo biển máu ở Saigon như hệ thống tuyên truyền của Mỹ và VNCH loan ra trước khi Saigon sụp đổ. Nhưng Cộng Sản vắt từ giọt máu của người tù ở trong trại cải tạo. Người tù đem sức ra làm lao động đến kiệt sức và chết ở đó. Lénine đã viết rất rõ để hướng dẫn chính sách lao động. Hắn viết “Tập trung chúng lại để làm công tác lao động, tạo cho chúng luôn luôn nuôi hy vọng chúng được thả, đổi trại thường xuyên để chúng nuôi hy vọng đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Sibéria”. Trong thời khủng hoảng kinh tế cuối thập niên 1920, Staline đã sử dụng các trại tập trung như những nông trường sản xuất nông nghiệp năng suất cao hơn những nông trường quốc doanh. Cộng sản Việt Nam rập khuôn theo đúng mô thức của Liên Xô. Cũng xây dựng nhiều trại tập trung, dùng sức tù làm công cụ sản xuất. Khi chiếm miền Nam, chính sách cải tạo đã có sẵn và Việt Cộng có chương trình đưa tất cả sĩ quan, nhân viên và các thành phần xã hội cần được “cải tạo” khác ra miền Bắc ở trong các trại tù, sau đó, nếu được thả cũng phải cư trú trên vùng rừng thiêng, nước độc miền Bắc không cho về miền Nam. Vì có sự mâu thuẫn trầm trọng với Trung Quốc, nên chương trình đưa cải tạo ra miền Bắc tạm ngưng từ tháng 4 năm 1977.

Do đó các lực lượng đối kháng của nhân dân miền Nam có tạo tình trạng bất ổn về chính trị cho Việt Cộng nhưng không có ảnh hưởng nhiều đến quyết định thả hay không thả tù cải tạo. Bọn Việt Cộng rất gian manh và chúng thường tìm mọi cách để giải thích các hiện tượng xã hội cũng như các quyết định để tuyên truyền. Đối với các gia đình thân nhân của người tù cải tạo, chúng giải thích là người tù học tập chưa tốt.

Số người được cho về sớm, đầu tiên là những người có quan hệ gia đình với bọn cán bộ Cộng Sản, có nằm vùng lập công trước 1975, sau đó đến các chuyên viên các ngành kỹ thuật. Trong những đợt xét tha có cả những người cấp bậc chức vụ lớn để tuyên truyền cho chính sách nhân đạo. Nhưng bên ngoài biết đâu những người này trước 75 có móc nối làm việc hai bên, hoặc những người có quan hệ gia đình với cán bộ cao cấp, hoặc những người quá già yếu cho về để chết ở nhà, những người hết sức đề kháng. Việt Cộng có thể thả một Đại Tá già vào thời điểm 1978. Nhưng mấy Thiếu Úy trẻ bị đánh giá là ngoan cố phải đến 1988 mới được thả. Việt Cộng quan tâm đến những người còn sức chống đối hơn là địa vị của tù nhân.

Tổ chức Phục Quốc tuy chưa gây được thiệt hại về vật chất cho Việt Cộng, nhưng sự nổi dậy của họ có nhiều giá trị:

– Về phương diện chính trị: cho thấy Việt Cộng không hoàn toàn chinh phục được nhân dân miền Nam, không phải chỉ có những người liên hệ đến chính quyền VNCH chống lại chúng như chúng đã tuyên truyền, mà những nông dân, công nhân là những người trước đây ủng hộ chúng đã chống lại.

– Về phương diện lịch sử: toàn dân Việt Nam đều mong mỏi đất nước độc lập thanh bình, người dân đã tham gia các phong trào yêu nước đánh thực dân Pháp, và Việt Cộng đã lợi dụng hoàn cảnh lịch sử đó để cướp đoạt quyền lãnh đạo kháng chiến.

Sau ngày 30-4-1975, các chiêu bài giải phóng dân tộc đã hết hiệu lực – Sự xây dựng xã hội chủ nghĩa không được dân chúng ủng hộ, nên phong trào chống đối nổi lên khắp nơi.

Tôi gặp Phố trong số anh em tù Phục Quốc đầu tiên tới trại Xuân Lộc. Tốt nghiệp Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt, vô binh chủng Biệt Động Quân, bị thương giải ngũ với cấp bậc Trung Úy. Phố hoạt động Phục Quốc bị bắt. Trong trại, Phố quy tụ được một số anh em cựu sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, có người trốn trình diện, có người đã là thương phế binh, và có cả những em còn là sinh viên sĩ quan khi Việt Cộng chiếm miền Nam. Hơn 10 anh em họ sống với nhau rất thân thiết, chia sẻ cho nhau từ món ăn nhỏ, đến những sự vui buồn trong những ngày tù tội đầy ải. Truyền thống Võ Bị Đà Lạt gắn bó họ sống thân thiết và có kỷ luật, giữ tinh thần huynh trưởng. Họ được các anh em trẻ quí mến, mỗi người tập họp được một số bạn khác.

Nhóm anh em đó thường tụ họp với nhau để trao đổi sự hiểu biết, kinh nghiệm, những nhận định về chế độ Cộng Sản, và họ cũng muốn duy trì một tinh thần chung cho những người tù bị bắt, dù nhiệt tâm chống cộng nhưng ô hợp không tổ chức. Những anh em sĩ quan trẻ này, cũng có những nhu cầu như Hoạt, như tôi khi sống chung với những tù nhân thế hệ trẻ, những người đối kháng sau 1975. Không nhiều thì ít chúng tôi đã có trách nhiệm trong việc làm mất nước, nên chúng tôi cũng phải có trách nhiệm với những người tù trẻ này. Chúng tôi không thể vô tình để mặc họ trước bao nhiêu những vấn nạn. Không thể tự tìm lấy lối sống khôn ngoan để tự bảo vệ lấy mình, làm Hàn Tín chịu luồn trôn hay Câu Tiễn nếm phân. Thực tế trong lịch sử Trung Hoa cũng như Việt Nam cũng không mấy ai đủ bản lãnh làm được như Hàn Tín và Câu Tiễn, nên những sự khôn ngoan lúc đầu nó là cái vỏ bảo vệ bản thân, nhưng rồi với thời gian chịu đựng, cái vỏ đó càng lúc càng biến thành một thứ xơ cứng đến khi muốn vùng lên cũng không còn đủ sức. Con người nhẫn nhục chịu đựng mãi qua thời gian lâu dài, sức phản ứng cũng bị tiêu tan như một cái lò xo bị nén lại lúc bung ra thì rất mạnh, nhưng nếu nén mãi không bung, sức đàn hồi bị tiêu diệt; khi sức đè nén bị cất đi cái lò so chỉ còn là một khoanh bẹp dí. Nhẫn nhục chịu đựng là một đức tính vô cùng quí báu của con người có đảm lược, nhưng với người bình thường trở thành sự nhu nhược. Chủ trương của Cộng Sản là tiêu diệt sức đề kháng của người bị chúng cai trị, chúng lấy thí nghiệm Pavlov với con chó cắt thực quản làm kinh nghiệm, làm cho người ta sợ hãi, làm cho con người phản xạ có điều kiện, lúc đầu là ý thức chịu đựng, nhưng dần dần thành thói quen. Chúng bắt một người tù gặp cán bộ phải giở nón chào, đi qua cổng gác phải giở nón cúi đầu, lúc đầu người tù làm vì bảo vệ an toàn cá nhân, nhưng nếu cứ làm mãi, làm mãi, trở thành thói quen, thấy cán bộ Cộng Sản là cúi đầu sợ hãi, không còn ý thức chống đối nữa. Không phải chỉ có những bài học tuyên truyền, bằng luận cứ một chiều, bằng những từ ngữ khuôn mẫu để tẩy não người tù; mà bằng cách sống hàng ngày, tạo sự sợ hãi và tuân phục cũng là một biện pháp tẩy não.

Chúng tôi thấy cần phải chống lại biện pháp cải tạo đó, để duy trì sức đề kháng, và chút hơi nóng còn sót lại trong bản thân của mình và truyền nhau giữ chung cái hơi ấm mỏng manh đó trong những người tù với nhau. Có nhiều anh em khác biết việc làm của chúng tôi, thương thì khuyên răn, ghét thì kê kích; họ gọi chúng tôi là những người ngu – nhưng chúng tôi cam chịu làm những người ngu. Có thể đất nước được xây dựng bằng những bộ óc khôn ngoan nhưng đất nước được bảo vệ bằng cả bàn tay của những người ngu lẫn người khôn. Dù có thể chịu nhiều nguy hiểm và thiệt hại, bản thân chúng tôi vẫn cố duy trì một hình thức chiến đấu trong tù, chiến đấu không phải để thắng, mà chiến đấu với bản thân, chiến đấu với những mưu toan của địch để duy trì sức đề kháng cần thiết.

Dịp Tết, gia đình thăm nuôi tấp nập, tù nhân qua lại thăm viếng nhau, tổ chức những bữa cơm bạn bè tập thể từ chiều 30 được nghỉ lao động. Anh em bên trình diện có nhiều phấn khởi vì họ nghĩ ra Tết chỉ khoảng hơn 4 tháng là hết hạn ba năm cải tạo, họ có thể được về. Khi các cửa nhà giam khóa lại sau buổi cơm chiều mọi người đều muốn giữ yên lặng để suy tư, nhớ về gia đình; không phải chỉ có mình họ ngồi trong tù tưởng nhớ mà giờ này gia đình cha mẹ vợ con cũng đang thổn thức nhớ thương. Một người nào đó như không chịu được không khí ngột ngạt nặng nề cất tiếng hát bài “Xuân này con không về”. Bài hát thật tầm thường, lời lẽ giản dị sao mỗi lần có người hát lên nghe buồn thúi ruột…. “Con biết bây giờ mẹ chờ mong con, khi pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi… nếu con không về chắc mẹ buồn lắm… đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai sẽ mang về cho tà áo mới, ba ngày xuân đi khoe xóm giềng…”. Tâm sự của người lính nơi chiến trường vì trách nhiệm không thể bỏ bạn bè để về thăm nhà mà nó da diết như vậy, huống hồ tâm sự của người tù, của những người đã mất nước không còn chiến trường để chiến đấu, không còn chiến tuyến để giữ, trở thành những người đói khổ, lếch thếch. Gia đình người tù không những buồn vì thương nhớ người thân mà còn phải lo chạy gạo hàng bữa nuôi con ở các chợ trời không đủ còn phải đem bán dần tài sản trong nhà từ cái áo quần, cho tới miếng gạch bông trong bếp hay miếng tôle đang lợp trên mái, cái gì cũng bán nếu thấy nó còn có thể bán được, nó không quá cần thiết cho sự sống bấp bênh hàng ngày.

Tiếng hát mới kết thúc là đã có tiếng phản đối:

– Hát buồn thúi ruột, hát bài khác cho vui không được sao. “Ly Rượu Mừng” đi, tiếng nói không có người hưởng ứng, người đó nói tiếp:

– Tết mà không có bài “Ly Rượu Mừng” là thiếu.

– “Ly Rượu Mừng” à, vô duyên quá, khung cảnh này mà mừng nỗi gì, mà chúc ai đây?

Một tiếng khác:

– Phải đó, hát bài nào cho hợp cảnh; “Ly Rượu Mừng” lạc lõng quá.

Người hát không chú ý đến những tán đồng hay phản đối chung quanh, với giọng thật buồn, anh chuyển qua ngâm thơ, anh thuộc gần như cả cuốn Chinh Phụ Ngâm lúc đọc lúc ngâm những câu thơ được anh diễn tả lúc hùng hồn, lúc tha thiết. Cả phòng không ai nói lời nào, mọi người đều lắng nghe. Nhiều tiếng thổn thức chứng tỏ có người đã khóc vì xúc động. Nhớ vợ con, nhớ cha mẹ anh em ở nhà. Hoàn cảnh giống nhau, tâm trạng giống nhau, cũng câu thơ, bài hát như xoáy vào trong lòng của người tù vào đêm 30 Tết chuẩn bị đón giao thừa. Người đàn ông nằm trong tù đày, những đàn ông đang bị đày đọa vì đã thua cuộc chiến, vì đã bỏ súng xuống mà không chiến đấu. Những người đàn ông không làm tròn bổn phận đối với tổ quốc và đối với gia đình, chỉ tội nghiệp cho những người đàn bà, khi trao thân ai cũng muốn cùng chồng sống hạnh phúc tới đầu bạc răng long, chỉ có tình yêu tổ quốc mới có thể đặt trên tình gia đình. Khi người chồng đi chinh chiến để bảo vệ tổ quốc, người vợ mới cam lòng làm kiếp chinh phụ nhưng ngày ra đi của người chinh phu thật đẹp đẽ và hào hùng (… giã nhà đeo bức chiến bào, thét roi cầu vị ào ào gió thu, … áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in…) và nhiều người vợ hiện tại cũng đã từng làm kiếp chinh phụ. Quảng Trị, Kontum, Bình Long, An Lộc… bao nhiêu địa danh bao nhiêu chờ đợi, người chinh phụ thời đại vẫn không sờn lòng. Nhưng rồi người chiến sĩ bỏ chiến trường, không chiến đấu. Ngày đi trình diện hay bị giặc bắt tận nhà đều thiểu não, còn đâu hình bóng hào hùng lúc chia tay, nếu không phải là một kẻ chiến bại ngơ ngác, thúc thủ gục đầu, còn đâu là hy vọng tương lai mong khúc khải hoàn về chốn triều trung hay chỉ là một kẻ đói rách còm cõi thân tàn ma dại, mà tháng tháng người vợ phải nhịn ăn, nhịn mặc mang thức ăn lên trại tù tiếp tế.

Tội nghiệp cho những người vợ ở nhà chờ chồng đi cải tạo, tiếng gì để gọi tên họ cho xứng đáng, vinh quang nào cho họ trong hoàn cảnh này.

Người mẹ, không có cái văn chương nào đủ để diễn tả được người mẹ Việt Nam, ngoài cái vinh dự cao quí nhất là đã đồng hóa mẹ với đất nước, “Mẹ Việt Nam” ai đã dùng ba chữ ngắn ngủi đó mà giá trị hơn cả ngàn bài thơ. Chỉ như thế mới xứng đáng với cái hy sinh của mẹ đối với con, của tình mẹ đối với con từ khi con lọt lòng đến khi con trưởng thành và kể cả con đã già. Ai mà không cảm động khi bà mẹ gần chín mươi tuổi lặn lội chống gậy mang đồ ăn từ Long Xuyên lên thăm con ở tù ở trại Xuân Lộc. “Ngoại đi thăm ai vậy ngoại?” “À, ngoại đi thăm thằng Hai,” thằng Hai tiếng gọi thật âu yếm của mẹ dành cho đứa con mà thằng Hai năm đó đã 64 tuổi.

Mẹ thương con, mẹ thương từ đứa con nên đến đứa con hư, đứa con thành công cũng như đứa con thất bại, vì tâm của mẹ không giới hạn, đứa nào mẹ cũng thương. Người cha cũng thương con, nhưng người cha vẫn thương đứa con thành công là ước vọng của người cha, hoài bão của người cha nhiều khi ông không đạt được. Cái trí của người cha nhiều khi làm cho tình thương của ông giới hạn, người cha cũng xót xa cho đứa con thất bại, nhưng không quí mến nó, và cũng có nhiều người cha ghét những đứa con hư; nhưng mẹ thì không vậy, vì mẹ sống với Tâm không giới hạn mà cha thường sống với Trí luôn luôn bị giới hạn.

Đêm giao thừa nằm nhớ nhà, người tù muốn dùng giây phút yên lặng thiêng liêng đó để trầm tư cho rõ lại thân phận mình và những lỗi lầm của mình trong thời gian qua, vì cuốn hút bởi cuộc sống, với những thành công cũng như thất bại, vui sướng hạnh phúc hoặc chán nản thất chí, người tù đều không có dịp để suy tư. Người tù đã thấy được cái tội lỗi của mình với nhân dân, cái tội buông súng không chiến đấu để bảo vệ cuộc sống tự do no ấm cho toàn dân, và người tù ước mơ, ước mơ có dịp chiến đấu trở lại.

Gặp gỡ đều đặn các anh em trong nhóm của Phố, trước tiên tôi khuyên họ nên đọc sách, trong nhà văn hóa có nhiều sách. Nếu anh em thấy cuốn “Tư Bản Luận” khó đọc thì đọc cuốn sách do Lénine viết, đọc để tìm hiểu thêm về Cộng Sản, cần đọc và chỉ đọc Lénine cũng đủ vì sách của Hồ Chí Minh hay các tác giả miền Bắc chỉ là những sách lập lại những gì Lénine đã viết. Cộng Sản Việt Nam muốn thần thánh hóa Hồ Chí Minh, ông ta có viết sách, làm thơ, nhưng tất cả ý kiến đều là lập lại, cóp nhặt; Hồ là một người đạo văn, đạo thơ trắng trợn nhất. Ở tù có 40 ngày ông ta viết tập thơ “Ngục Trung Nhật Ký”, khi đọc Đường Thi mới biết ông ta cóp Đường Thi, có bài cóp nguyên chỉ sửa lại vài chữ, ý của ông chỉ lập lại ý của người xưa mà không ghi xuất xứ.

Anh em trẻ hầu hết đều chống việc đọc sách của Cộng Sản.

Cách thức tuyên truyền cái gì của địch cũng xấu, cũng dở và ngăn cấm tiếp xúc, tìm hiểu địch là cách thức của Đảng Cộng Sản đối với đảng viên và dân chúng của vùng họ cai trị, luôn luôn buộc đảng viên và người dân tin vào lãnh tụ và chỉ biết lý luận một chiều. Nhưng phía VNCH, các chính phủ trước cũng có sai lầm là cấm đọc sách Cộng Sản, nên sự hiểu biết về Cộng Sản quá ít.

Chúng ta đã theo chính sách giáo dục khai phóng, dân chúng có thể sử dụng mọi phương tiện truyền thông để tìm hiểu, thì không thể ngăn cấm bất cứ điều gì. Trong hoàn cảnh giao thời tranh tối tranh sáng của lịch sử, dân chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm để học hỏi, họ có thể nhận định chưa chính xác, thì chính quyền cũng không nên ngăn cấm mà chỉ bổ khuyết bằng sự giải thích. Trong nhà tù những người có ý thức chống Cộng càng phải đọc sách của họ và vừa đọc vừa đối chiếu với thực tế, rất dễ tìm ra những sai lầm của họ, và hệ thống hóa những điều hiểu biết đó để chia sẻ với nhau. Chúng tôi đã lợi dụng được những bữa cơm, những buổi trưa nghỉ để trao đổi với nhau một số đề tài:

1- Các lý luận của Karl Marx trong tập Tư Bản Luận dựa trên sự đơn giản quá mức của sinh hoạt kinh tế vốn phức tạp và sinh động. Do đó, khám phá về “thặng dư giá trị” không đứng vững đưa đến kết luận về giai cấp bóc lột và bị bóc lột cũng sai, vì hiện tại đã cho thấy trong sự giao dịch giữa hai con người, hai tổ chức, hai quốc gia có thể đạt được lợi ích cho cả hai bên không cứ phải một bên có lợi và một bên bị bất lợi. Khối lượng tư bản được sử dụng trong quá trình sản xuất không phải để bóc lột giá trị thặng dư mà chính yếu là tái đầu tư tạo điều kiện để đẩy mạnh guồng máy sản xuất.

2- Chế độ Cộng sản chỉ phát triển tại các nước chậm tiến nghèo đói, mà không thể phát triển được ở các nước Tư Bản như Marx và Engels tiên đoán. Tại các nước Tư Bản, chủ thuyết Cộng Sản là một tư tưởng đối lập, để xã hội Tư Bản điều chỉnh những nhược điểm của họ nên các nước Tư Bản tổ chức xã hội càng ngày càng hoàn chỉnh hơn, trái với sự tiên đoán của Marx là “Tư Bản Sẽ Giẫy Chết”.

3- Lợi dụng được hoàn cảnh lịch sử và xã hội đầy bất công của chế độ Sa Hoàng. Lénine thành lập và phát triển Đảng Cộng Sản thành công để cướp chính quyền. Đảng Cộng Sản và chủ trương bạo lực là phương tiện để các nhà lãnh đạo củng cố chính quyền độc tài của mình, biến người dân thành một công cụ sản xuất. Tập trung Dân Chủ là một thuật ngữ để biện minh cho tính độc tài, đấu tranh giai cấp là một đường lối để tiêu diệt kẻ đối lập. Chính quyền Cộng sản trở nên lạc hậu hơn chính quyền quân chủ và phong kiến, không giải phóng giai cấp bị bóc lột mà họ biến đảng viên cộng sản thành một giai cấp mới bóc lột nhiều hơn bất cứ nhân viên các chính quyền từ trước đến nay.

4- Tôn sùng thần thánh hóa lãnh tụ. Đảng viên tin tưởng cuồng tín vào lãnh tụ. Đảng Cộng sản trở thành một tôn giáo xây dựng trên lòng thù hận. Mọi tôn giáo đều xây dựng trên tình thương đã tồn tại. Tôn giáo xây dựng trên thù hận không thể tồn tại được vì trái thiên nhiên, đi ngược lại tính người và ước vọng của con người. Chủ trương đấu tranh giai cấp từ 1976 đã bị một số đảng cộng sản ở Tây Phương như cộng sản Ý, cộng sản Pháp, cộng sản Nhật, là ba đảng cộng sản lớn ở các nước tư bản từ bỏ.

5- Phong trào chống cộng đang âm ỉ không dứt tại các nước Đông Âu, và định ước Helsinki năm 1976 sẽ tạo điều kiện để các phong trào đó lớn mạnh.

6- Mâu thuẫn Trung Quốc – Liên Xô không thể hàn gắn được. Trung Quốc đang đi tìm một đường hướng mới và muốn chứng tỏ mình là một mẫu mực phát triển cho các nước thế giới thứ ba, một chính quyền mạnh và một chủ trương kinh tế cởi mở.

7- Thuyết 4 thế giới của Brezinski nhằm đẩy mạnh sự chia rẽ của khối Cộng sản. Ba Lan là một điểm quan trọng để thực thi học thuyết đó vì Brezinski là người Ba Lan di cư.

8- Tại Việt Nam, Cộng Sản dùng chiến tranh giải phóng để ngụy trang cho cuộc xâm lăng của Cộng Sản Quốc Tế. Lénine đã viết rõ hai sách lược cách mạng, trong đó, cuộc cách mạng dân chủ nhân dân là bước một để đi tới Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa – chiến tranh giải phóng dân tộc là áp dụng linh động chiến lược đó.

9- Các lý thuyết gia Cộng sản đang truyền bá và cổ vũ cho lý luận về ba dòng thác Cách Mạng, sự tin tưởng này không còn vững vì “dòng thác số 1”, khối cộng sản thế giới chỉ là một đế quốc do Liên Xô chi phối đang có nguy cơ tan vỡ vì tinh thần quốc gia của nhân dân Đông Âu luôn luôn muốn nước họ độc lập với Liên Xô, gây ra một sự chia rẽ mà thế giới Tây Phương đang đẩy mạnh; ngoài sự chia rẽ đã có giữa Liên Xô và Trung Quốc. “Dòng thác 2” phong trào giải phóng dân tộc sẽ kết thúc khi các nước nhược tiểu độc lập. Thuyết 4 thế giới của Brezinski cũng giải tỏa không còn tương quan thuộc địa và mẫu quốc. Do đó, các nhà lãnh đạo ở các quốc gia này có tự do chọn lựa mô thức phát triển của họ, họ không có nguy cơ bị lệ thuộc trở lại mẫu quốc nên không bị đẩy một cách tự nhiên về phía Cộng Sản, “Dòng thác thức 3”, Cộng sản mong đợi là các phong trào đòi dân sinh ở các nước Tư bản, hệ thống an ninh xã hội ở các nước Tư bản giải quyết hầu hết mâu thuẫn chủ nhân và công nhân, tạo sự gắn bó quyền lợi của công nhân vào nhà máy (ưu điểm quản trị của Nhật Bản) – nếu có đấu tranh chỉ là những phản ứng và đòi hỏi nhỏ sẽ được giải quyết thỏa đáng với sự trọng tài của chính quyền. Do đó, những vận động đó không thể là phong trào làm sụp đổ chế độ Tư bản như Cộng sản mong đợi.

10- Chế độ Tư bản không phải là mẫu mực lý tưởng nhưng so với chế độ Cộng sản thì vẫn hơn. Người công nhân trong chế độ tư bản cũng phải làm để phục vụ quyền lợi chủ nhân nhưng họ được tự do và no ấm. Trái lại, công nhân trong chế độ Cộng sản được gọi là làm chủ xã hội nhưng không có tự do và bị nhà nước và Đảng Cộng sản bóc lột.

11- Các tác giả Cộng sản thường chỉ trích nạn thất nghiệp trong xã hội Tư bản. Điều này đúng; nhưng Tư bản đã giải quyết một phần nhờ quỹ thất nghiệp và chế độ an sinh xã hội. Chế độ Cộng sản tự hào là mọi người có việc làm không bị thất nghiệp. Nhưng thực tế, nhân công bị bóc lột, lương không đủ sống, làm việc không năng suất, tạo tình trạng thất nghiệp trá hình cho cả xã hội. Trong khi đó, đảng và nhà nước tập trung thành phần ăn bám không sản xuất quá đông đảo.

12- Vì hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, Việt Cộng sử dụng hữu hiệu lá bài dành độc lập dân tộc và họ dùng cả Viện Sử học để lý luận cho tính dân tộc, và tự nhận là thành phần yêu nước trong lúc họ miệt thị các thành phần dân chúng khác. Càng dùng lịch sử để ngụy chứng dân tộc, Cộng sản càng đi xa căn bản của họ là chính sách quốc tế. Khi nhu cầu giải phóng dân tộc không còn nữa, tuyên bố xây dựng xã hội chủ nghĩa họ đã đi ngược lại, tự mâu thuẫn với quá khứ.

13- Lịch sử Việt Nam không cần thiết phải qua giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa. Và Marxism không thích hợp với văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là một văn hóa hội nhập và lọc lựa của Nho Thích Lão, và Ki Tô, văn hóa Việt Nam không chủ trương độc tôn như Marxism, dân tộc Việt Nam là một dân tộc thống nhất, sự chia rẽ là do các âm mưu của nhà cầm quyền, nên chủ trương phân chia giai cấp, đấu tranh tiêu diệt thành phần dân tộc khác là sai lầm. Xã hội Việt Nam không có giai cấp tính những thứ bực trong xã hội thay đổi rất nhanh qua cố gắng của mỗi người.

14- Hồ Chí Minh là con người Cộng sản quốc tế. Cũng từ một người yêu nước đi tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Pháp. Hồ Chí Minh quá tin vào chủ nghĩa Cộng sản, và nhờ sự giúp đỡ của Cộng Sản Quốc Tế ông đã đoạt được chính quyền trong tay thực dân Pháp lại đưa dân tộc vào con đường nô lệ mới, nô lệ tư tưởng Marxism và nô lệ cho đế quốc Liên Xô và Trung Quốc.

Vì Hồ Chí Minh là đảng viên cộng sản quốc tế, nên trong cuộc chiến tranh ý thức hệ sau Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam trở thành một chiến trường tranh chấp và thử nghiệm của hai thế lực quốc tế. Dân tộc Việt Nam phải điêu linh và chết chóc hàng chục triệu người.

Nếu ông Hồ Chí Minh là người quốc gia, việc thu hồi độc lập ở Việt Nam dễ dàng hơn, không tốn xương máu, vì phù hợp với phong trào giải thực, kinh nghiệm các nước Indonesia, Malaysia, Miến Điện thu hồi độc lập dễ dàng là một minh chứng.

Sau năm 1975, nhiều nhà trí thức đã lập thuyết nhằm chống lại thuyết Cộng Sản, ai cũng nghĩ là một trong những khuyết điểm của chính quyền cũ là họ điều hành chống Cộng không có lý thuyết. Việc lập thuyết là việc của những bậc trí thức, triết gia, chúng tôi cũng chờ đợi để có lý thuyết hướng dẫn tư tưởng và có người lãnh đạo. Ở vị trí một người kém hiểu biết về triết học; chúng tôi chỉ đọc và suy nghiệm một số ý kiến để trao đổi với nhau để cùng nhau giữ một niềm tin và một chút hơi nóng để chống lại âm mưu hủy diệt của địch và để làm cho thời gian ở tù bớt vô ích. Tạo điều kiện cho đầu óc làm việc. Trí óc không làm việc con người trở nên yếu hèn và mụ mẫm đi, trong lâu dài con người sẽ trở nên đờ đẫn hết sinh khí, đó là chủ trương tiêu diệt sức đề kháng của Cộng sản. Cần phải chống lại chủ trương đó bằng cách giữ cho được sức đề kháng dù phải trả những giá đắt trong xà lim.

Suy nghĩ về tổ chức đảng và chính quyền Cộng sản, chúng tôi nhận thấy Cộng sản là một tổ chức đồ sộ gồm hai hệ thống Đảng và Chính quyền, bên cạnh đó còn có những đoàn thể ngoại vi, Đoàn, Đội. Một tổ chức phải có qui luật của nó, nên muốn hiểu Cộng sản phải tìm cho ra các qui luật điều hành bộ máy đó. Khuynh hướng phát triển tự nhiên của các guồng máy là càng ngày càng bành trướng đưa đến sự phí phạm nhân lực và tài chánh bởi những khu vực vô ích hoặc không hợp thời. Tính nguyên tắc và sự bó buộc tôn trọng nguyên tắc đưa đến tính thư lại bàn giấy, kém hiệu năng. Cán bộ trong một hệ thống tổ chức vừa nặng nề, thư lại vừa độc đoán tàn nhẫn như vậy không thể nào có sáng kiến vì rõ ràng là sáng kiến nếu đúng không đem cho họ một lợi ích nào hoặc rất ít – ngược lại nếu sai họ sẽ bị trừng phạt một cách rất nặng. Từ đó, thái độ đương nhiên là họ phải tìm cách bảo vệ bản thân bằng cách dựa vào luật lệ cứng nhắc và sự trình báo tốn thì giờ.

Kết lại, trong một tổ chức như vậy, nếu người lãnh đạo muốn phục vụ dân thì tổ chức cũng không phục vụ được, muốn sửa đổi không thể sửa đổi được. Đảng Cộng sản chỉ có thể là phương tiện tranh đoạt chính quyền mà không thể làm cách mạng xã hội.

Trường hợp ở nhà tù, cán bộ quản lý ở trại trình gia hạn bản án tập trung để Bộ Nội Vụ sẽ thuận đề nghị một cách rất dễ dàng – nhưng ngược lại nếu trình xin thả một người tù rất khó khăn và có thể đưa đến cho người đề nghị nhiều phiền toái nếu người tù được tha lại tái phạm.

Chính sách của Cộng sản đã phi nhân, tàn nhẫn mà tổ chức chính quyền còn làm cho sự tàn nhẫn đó tăng thêm nữa.

Hệ quả khác của tính tổ chức là Cộng sản nhằm tiêu diệt các tổ chức đối kháng một cách triệt để. Lénine đã phân biệt một hành động có tính tự giác và tính tự phát. Họ đánh giá cao tính tự giác do đó kinh nghiệm rút ra là đừng để Cộng sản phát hiện tính cách tổ chức khi hoạt động, nếu bị phát giác làm cho họ tin đó là hành động cá nhân lẻ tẻ.

Về sau vì số các em càng đông, không thể ngồi nói chuyện được, anh em đề nghị làm tài liệu viết. Thể thức này rất khó khăn và tốn thì giờ, nguy hiểm và dễ bị khám phá, và khi khám phá thì không chối được yếu tố buộc tội. Tuy nhiên nó có lợi là có thể phổ biến được rộng rãi hơn; công việc làm cũng trở nên quan trọng hơn, tập đức tính cẩn thận cho anh em khi làm việc, khi đọc và có thể càng làm việc khó anh em trở nên gắn bó hơn.

Chúng tôi bắt đầu phổ biến tài liệu viết, đặt tên là tập “Rèn Luyện”. Thể thức phổ biến là lập các địa điểm hộp thư tại sân khấu hội trường, anh em thân thiết tin cậy được chỉ những hộp thư đó, đọc xong để lại và thống nhất cách khai nếu bị bắt, khai là lượm được tò mò đọc chơi không biết của ai. Những anh em có nhiệm vụ “lên khuôn” cố gắng viết chữ in và tránh nét chữ quen thuộc của mình để tránh điều tra phát hiện. Tài liệu “Rèn Luyện” được duy trì cho tới tháng 3-1979, đa số anh em chuyển trại vào khu nhà xây mới chấm dứt.

Đến giữa năm 1978, tù bên phía trình diện bắt đầu thất vọng vì hết hạn ba năm họ không được thả theo chính sách qui định. Cái buồn của anh em trình diện nhưng là sự thuận lợi chung của trại tù. Anh em trình diện bắt đầu hiểu Cộng sản hơn, sự cách biệt giữa hai thành phần tù được xóa đi và tù sống thông cảm nhau hơn; anh em tham gia nếp sống chung ở trại hơn là tìm cách đi riêng để tìm thuận lợi do bọn cán bộ Cộng sản ban phát.

Chúng tôi được anh em đội nhà bếp thông báo trong lần chở bắp đi đổi khoai mì, cán bộ hậu cần và cán bộ quản giáo nhà bếp thông đồng nhau chở về 10 tấn khoai mì thối của kho thực phẩm huyện Xuân Lộc. Trại sản xuất chính là ngô trắng, ngô dùng ăn độn là phần tự túc của trại cùng với phần tiêu chuẩn gạo của Bộ Nội Vụ. Theo công thức đổi các loại lương thực của nhà nước Việt Cộng đề ra là gạo = 2 ngô = 3 khoai lang = 4 khoai mì tức 1kg đổi 4kg khoai mì. Như vậy tiêu chuẩn phần ăn là 15kg gạo cho mỗi người tù trong một tháng; nếu độn 50% thì đáng lẽ phải ăn 7.5kg gạo + 15kg ngô hoặc 7.5kg gạo + 22.5kg khoai lang hay 30 kg khoai mì (sắn). Nhưng quản lý trại đã ăn gian chỉ cho ăn 7.5kg gạo + 7.5kg ngô, hoặc 7.5kg khoai các loại – tức là giảm lược tiêu chuẩn tổng cộng chỉ 15kg dù ăn loại lương thực nào. Đó là bước gian lận thứ nhất. Bước thứ hai là chúng đem ngô trắng chúng tôi sản xuất ra kho huyện đổi thành ngô đỏ. Giá ngô trắng gấp đôi giá ngô đỏ.

Đến năm 1978 thì mức độn càng cao, chúng càng ăn gian qua bước thứ ba là đem ngô đổi khoai mì khô. Tù nhân vẫn chịu đựng. Họ sống nhờ vào quà gia đình thăm, người không có gia đình tiếp tế thì nhờ anh em khác hay là phải… khắc phục. Tù càng chịu đựng chúng càng tăng thêm sự bóc lột. Ban quản lý ăn gian từ ngô ra sắn, hai thằng cán bộ lẻ tẻ lại ăn gian bằng cách nhận sắn mục thối của kho hợp tác xã để lấy tiền riêng.

Nhà bếp lưu ý nếu anh em không có ý kiến thì sẽ ăn khoai mì thối dài dài vì ngoài huyện cả kho hàng mấy trăm tấn bị hư hỏng vì quản lý kém ngoài việc đẩy cho tù chịu họ không có cách giải quyết khác.

Hội ý chớp nhoáng nhiều anh em, các đội đưa đến quyết định là lần phát khoai thối đầu tiên sẽ trả lại không nhận.

Kết quả 23 đội tù ở phân trại, trừ “đội 1 hoàng gia” toàn anh em tù có thân thế đi làm các công tác lẻ tức công tác phục dịch cán bộ và giữ an ninh trật tự, các chức vụ tự quản coi nhà thăm nuôi, văn hóa, y tế, chăn nuôi, đội 1 “xe be” là đội được tin tưởng đi làm xa lấy gỗ trong rừng sâu làm lợi cho giám thị trại và đội 23 của đội trưởng thiếu úy cảnh sát Nghĩa – còn 20 đội gồm cả 2 thành phần trình diện và bị bắt đều không nhận khoai mì thối. Thiếu úy Nghĩa, người đã “cương quyết giúp đỡ”, cho anh em cải tạo tức là báo cáo rất kỹ hành động của các bạn tù trong đội anh, đồng thời anh đã góp ý kiến rất nổi danh để xây dựng trại, xin cho tù đi làm ngày mưa vì theo anh “mưa lớn, xem như mưa nhỏ, mưa nhỏ xem như không mưa.” Ban chỉ huy không chấp nhận. Cho tù nghỉ mưa không phải chúng thương tù phải lao động dưới mưa ướt mà chúng sợ nhân trời mưa tù trốn.

Hai mươi đội trả phần ăn để phản đối, lần đầu tiên xảy ra trong trại tù Xuân Lộc. Cộng sản luôn luôn đấu tranh trong nhà tù mục đích để đạt được điều chúng đòi hỏi nhưng đồng thời là kỹ thuật rèn luyện cán bộ, cán bộ được tổ chức, học tập, luôn luôn phải có hành động cụ thể như là học tập.

Cái gì Cộng sản thường làm thì chúng ngăn cấm người khác làm. Chúng học văn hóa trong trại tù, chúng ngăn cấm tù học văn hóa, chúng thường đấu tranh trong nhà tù chúng quyết liệt tiêu diệt đấu tranh.

Thượng úy Vinh, trại phó kiêm phân trại trưởng họp các đội trưởng và đích thân xem xét lại thức ăn. Các đội trưởng hoan hỉ khi nghe hắn nói: “Đúng là khoai thối, lợn cũng không ăn được,” hắn chỉ thị nhà bếp ra kho cán bộ đem gạo về nấu ngay phần cơm bù thế, và ngày mai chở khoai mì thối ra lấy gạo. Anh em được một bữa bàn tán và khỏi sinh hoạt trước giờ ngủ – 9 giờ tối nhận bữa cơm trắng ngon lành.

Quyết định của tên phân trại trưởng quá dễ dàng và “quá dễ thương” nên chúng tôi rất nghi ngờ, thông báo anh em cẩn thận để tránh sự điều tra và thu lượm tin tức của hệ thống an ten (tù nhân làm tay sai báo cáo).

Quá phấn khởi trước sự đồng lòng của anh em tù không nhận khoai mì thối, anh Trần Danh San họp nhóm anh em trẻ mới gia nhập tổ chức nhân quyền của anh để biểu dương thành tích. Việc làm của anh San đem lại cho anh hai điều hại, anh bị bọn an ten phát hiện báo cáo đồng thời gây ra một sự mất đoàn kết. Các nhóm chính trị khác chỉ trích anh là người “cướp công”, vì việc trả khoai là hành động chung của toàn thể người tù không riêng gì của tổ chức chính trị nào.

Anh Trần Danh San là một luật sư tại Đà Nẵng – một người có kiến thức rất uyên bác và nhiều ý kiến sâu sắc. Anh là mẫu người trí thức dám dấn thân để đấu tranh, dám làm, dám chịu. Trong thời gian ở trại tạm giam và sau này ở trại lao động lúc nào Anh San cũng tuyên truyền các lý luận chống Cộng, tổ chức và thúc đẩy đấu tranh. Anh San có ưu điểm là sự chịu đựng bền bỉ, tính kiên trì đáng phục. Ngay khi bị cùm chân trong xà lim tối, Anh San vẫn đều đặn tập thể dục để giữ cho thân thể không hủy hoại, tê liệt, và luôn luôn suy nghĩ và trao đổi ý kiến và lý luận chống Cộng Sản với người khác. Sinh hoạt và tập thể dục trong xà lim để chống lại sự hủy hoại và sự chết là một kinh nghiệm quí báu của Anh San đã giúp chúng tôi tồn tại sau những thời gian bị giam cầm kỷ luật có những lần kéo dài hơn cả hai năm.

Trần Danh San bị bắt giam vào xà lim vì bị xem như là người cầm đầu xúi giục đấu tranh trả khoai mì thối. Tinh thần anh em lung lay, sợ hãi; nên tên Thượng úy Vinh cho chở lại 10 tấn khoai mì thối. Anh em không ăn được thì lấy đổ đi không trả lại nữa. Qua kinh nghiệm này, chúng tôi rút được một kết luận là Cộng sản quan niệm mọi hành động đều phải có người cầm đầu xúi giục; và khi chúng tìm ra người lãnh đạo hay gán cho một người nào đó trách nhiệm lãnh đạo thì công việc xem như đã giải quyết phần lớn, chúng cũng không truy cứu tiếp tục.

Chúng tôi khẳng định đấu tranh trong nhà tù Cộng sản chỉ nhằm mục đích duy nhất là duy trì sự phản kháng để nhà tù không phải chỉ là nơi người tù cam chịu một cách tồi tệ, nhục nhã. Cuộc đấu tranh trong nhà tù hoàn toàn đơn độc – khác với trường hợp tù nhân Cộng sản trước kia – họ đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và liên hợp với bên ngoài và còn đạt được sự ủng hộ của dư luận quốc tế do mặt trận ngoại giao của họ đem lại. Họ đấu tranh để thắng, tù nhân chúng tôi đấu tranh chỉ để truyền cho nhau chút hơi ấm và một niềm tin tương đối mỏng manh, đấu tranh để giữ danh dự.

Sau thời hạn 3 năm anh em không được về, đã làm nhiều người thức tỉnh và họ chịu hiểu hơn về Cộng sản. Cán bộ trại chính thức giải thích ba năm chỉ là một mốc thời gian; như vậy người tù cải tạo có thể ở 3 năm, 6 năm, 9 năm, 12 năm hay 15 năm…

Thuật ngữ “tập trung cải tạo” đã đánh lừa được nhiều người, rất nhiều người kể cả người Việt Nam cũng lầm tưởng là “tập trung cải tạo” không phải là tù, hoặc nhẹ hơn tù có án. Khởi đầu mức độ tội phạm của họ là nhẹ, nhưng khi thụ hình cũng cùng một qui chế như người có án, từ việc mặc quần áo có đóng dấu, mức lao động, chế độ ăn uống hoàn toàn như nhau.

Sự khác biệt chỉ ở vấn đề quản lý hồ sơ; một người tù có án do tòa phán quyết, khi thụ hình, công an quản lý họ, trách nhiệm công an phải theo dõi và ghi hồ sơ cải tạo, nhưng thực tế, công an quản lý không bị gắn chặt vào trách nhiệm với người tù, nên nếu người tù không phạm một tội nặng khác họ sẽ được thả ra khi hết án. Ngoài ra luật pháp của Cộng sản cũng có cơ hội đặc xá, giảm án hàng năm cho tù có án.

Ngược lại, đối với tù cải tạo tập trung, khởi đầu mức độ tội phạm nhẹ, tòa án không thụ lý, giao quyền cho công an xử trên quan điểm bảo vệ an ninh xã hội. Công an có quyền xử tập trung mọi người trong thời hạn ba năm, có tái hạn. Sự tàn nhẫn nhất là quyền tái hạn tập trung trong ba năm và không có giới hạn, tức là hết ba năm gia hạn thêm ba năm khác nếu họ kết luận người tù chưa cải tạo tốt.

Từ cơ quan công an xử lý tội tức các ty sở công an, giao qua công an quản lý tức cục quản lý trại giam mà đại diện là bộ chỉ huy các trại tù. Công an ở trại cải tạo có trách nhiệm quản lý và theo dõi thái độ cải tạo của người tù tập trung cải tạo và họ có quyền đề nghị gia hạn hay xét tha sau suốt các mốc cải tạo ba năm; nguyên tắc thì không khác với sự quản lý tù có án, nhưng đối với cơ quan công an, tội trạng của tù có án đã được tòa án quyết định rồi, trách nhiệm của họ với người tù có án không quan trọng. Trái lại trách nhiệm của công an quản lý với người tù tập trung rất nặng nề.

Trong một hệ thống chính quyền đầy tính thư lại, nặng nề và tàn nhẫn, cơ quan công an quản lý phải tự bảo vệ họ trước nên họ không dám đề nghị xét tha rộng rãi cho tù cải tạo. Họ phê xấu để gia hạn tập trung là một việc thông thường, nhẹ nhàng nhưng rất tàn nhẫn. Ngoài ra cũng từ tính thư lại, tắc trách của hệ thống chính quyền quản lý đó, những đề nghị xấu tức đề nghị gia hạn tập trung lại được chấp thuận dễ dàng ở Bộ Nội Vụ, mà đề nghị xét tha thì rất khó được chấp thuận vì qua mỗi cấp độ quyền hành họ cắt bớt. Sợ trách nhiệm là đặc tính của chính quyền Cộng sản làm họ giải quyết chậm chạp mọi việc. Do đó, trên thực tế, vận mạng của người tù cải tạo tập trung được quyết định tăng án ở cấp thấp nhất và được quyết định thả ra ở cấp cao nhất. Một lỗi nhỏ trong thời gian thụ hình như ăn cắp một củ khoai bị phạt 7 ngày giam xà lim sẽ không ảnh hưởng đến việc tha ra trại khi mãn án đối với người tù có án. Nhưng cũng với lỗi lầm nhỏ đó, là một yếu tố chắc chắn để gia hạn tập trung ba năm khác.

Một phường trưởng, một công an khu vực có thể đề nghị tập trung cải tạo một người dân, nhưng khi thả ra cấp quyết định thấp nhất phải là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ chiếu đề nghị của Cục trưởng quản lý trại giam.

Về phía tập trung cải tạo hình sự, có nhiều trường hợp điển hình cụ thể, thời gian 1975, 1976 khi người dân miền Nam chưa hiểu ý nghĩa của sự học tập cải tạo, có nhiều gia đình có con ngỗ nghịch hay bỏ học, khuyên răn không được, đưa lên phường nhờ giáo dục, phường đề nghị đưa đi tập trung cải tạo, sau thời gian gia đình thấy đủ để phạt con em mình, làm đơn xin cho con được tha, phường không có thẩm quyền tha, đưa lên quận cũng không có quyền tha, sở cũng không có quyền; vì quyết định tha phải từ bộ, sở chỉ làm đề nghị và chuyển đơn của gia đình lên bộ. Bộ chưa cứu xét thì đứa con đã chết trong trại cải tạo vì sốt rét.

Đó là phân tích trên ý kiến là các cán bộ ở mọi cấp của Cộng sản có thiện chí giúp người dân mà họ cũng đành bất lực trước nguyên tắc của tổ chức. Trong khi thực tế, người cán bộ Cộng sản không “dễ thương” như vậy, tuyệt đại đa số là những người rất ác, vì Đảng dạy cho họ hận thù mà không dạy cho họ tình thương. Con người bản chất có tính ác và tính thiện, nhưng tính ác dễ phát triển hơn tính thiện; điều kiện xã hội tốt tính thiện phát triển, cô lập tính ác; điều kiện xã hội xấu tính ác phát triển tiêu diệt tính thiện. Xã hội Cộng sản, con người chỉ phát triển tính ác. Tóm lại, chế độ Cộng sản được xây dựng trên một lý thuyết sai lầm, dùng hận thù làm một động lực kết hợp và phát triển, khai thác tính ác, tính xấu và tính đố kỵ bần tiện của con người; tổ chức nặng nề và thư lại nên chế độ Cộng sản là một chế độ cực kỳ xấu xa, con người Cộng sản hầu hết là những người độc ác và đê tiện. Dân chúng sống trong chế độ Cộng sản cực kỳ nghèo đói, khổ sở.

Năm 1978, Việt Cộng lại đổi tiền, mở chiến dịch đánh tư sản. Sau lần đánh tư sản thứ hai, người dân lại nghèo hơn nữa – phải ăn bo bo thay gạo. Bo bo là nông sản dùng cho ngựa ăn, hạt tròn tròn bằng đầu mút đũa, có vỏ dầy, dẻo như cao su, ăn vào không tiêu, hôm sau bài tiết ra nguyên hột. Bo bo, Việt Cộng gọi là cao lương, một trong những tài của Cộng sản là sự giải thích và sử dụng từ ngữ, việc tệ hại đều có những giải thích nghe hợp lý, có những nhà trí thức được trả lương để làm công việc giải thích. Trong xã hội Cộng sản, có nhiều từ ngữ được sáng tạo để phục vụ chủ trương đường lối giải thích tô hồng chế độ, suy tôn lãnh tụ mà không cần biết thực chất.

Trại tổ chức học tập nói về thắng lợi to lớn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua thăm viếng Ấn Độ. Bà Thủ tướng Indira Gandhi đã trải thảm đỏ từ phi trường về đến nhà quốc khách. Bà quả phụ Nehru nhận ông Phạm Văn Đồng là em nuôi. Trong chuyến công du “thắng lợi vĩ đại” đó, có hai văn kiện được ký kết. Thứ nhất sự trao đổi hàng hóa Việt Nam đổi gạo lấy bo bo của Ấn. Một tấn gạo đổi lấy 4 tấn bo bo và văn kiện thứ hai là Ấn Độ viện trợ cho Việt Nam 4 con trâu Murat để lấy sữa và gây giống – nhà nước làm lễ thật lớn để nhận 4 con trâu và đem về nuôi ở trại nông nghiệp Tam Đảo.

Chuyện về kinh tế của một nước mà như chuyện diễu, thắng lợi thật vĩ đại với 4 con trâu sữa, trong lúc toàn dân đang đói, nền kinh tế đang xuống dốc.

Cán bộ giáo dục cũng giải thích sự khôn ngoan ưu việt của các lãnh đạo Đảng qua việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký với Thủ tướng Ấn Độ hiệp ước giao thương đổi một tấn gạo lấy 4 tấn bo bo của Ấn Độ.

Cuối buổi thuyết trình tài liệu học tập, cán bộ giáo dục còn khoe uy tín của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Hắn nói: “Bây giờ nước ta là một cường quốc chính trị, ta sẽ làm cố vấn cho mọi phong trào chống đế quốc trên thế giới, những nhà lãnh đạo của Đảng ta đi tới đâu cũng được đón tiếp long trọng; trong hội nghị các nước phi liên kết ở Colombo, các nhà lãnh đạo trên thế giới không ai dám phát biểu, phải đợi Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu trước rồi họ mới phát biểu tiếp theo sau”. Hắn nói rất thành thật. Tội nghiệp cán bộ Cộng sản khi họ nói họ tin lời nói của họ là thật nên nói không ngượng miệng. Trình độ hiểu biết cán bộ quá thấp, họ nói theo bài học cho Đảng viết ra. Họ tin vào tài liệu dối trá của Đảng.

Chính sách ngu dân của Đảng Cộng sản có kết quả khi trình độ dân trí còn thấp, giờ đây trước nhóm người nghe là tù nhưng có trình độ hiểu biết khá, nên cảnh học tập thật buồn cười. Người nghe bị buộc phải ngồi nghe, nên miễn cưỡng, còn người nói dóc lại tin là mình nói thật, nên giảng viên không biết mình trở thành tên hề diễu dở.

Chế độ Cộng sản có thể phát triển trong xã hội nghèo đói, bất công, trình độ dân trí thấp kém. Khi dân trí đã cao, đời sống kinh tế sung túc, không ai tin được những lý luận của Cộng sản nữa.

Hoàn cảnh kinh tế càng ngày càng xuống dốc thê thảm ảnh hưởng cả nước không riêng gì trong trại cải tạo. Gia đình bên ngoài dù thiếu ăn vẫn tìm mọi cách để thăm nuôi tiếp tế, người trong tù cũng hiểu hoàn cảnh ở nhà, nhưng vẫn chờ đợi giỏ đồ thăm vì nếu không có thăm nuôi hàng tháng hay vài tháng một lần không ai chịu đựng nổi. Đi làm lao động kiếm thêm ngọn rau dại, củ sắn, khoai mì còn sót, bắt con dế, cào cào, châu chấu, chuột, nhái, bất cứ vật gì có thể ăn được. Nhưng người đông, phạm vi lao động đi lại trong đám ruộng nhỏ bé, đâu dễ gì tìm ra cọng rau hay sinh vật ăn được, chỉ những anh em được làm ruộng, làm tự giác, chăn nuôi, làm rừng mới có thể tìm thêm miếng ăn bằng cách đó thôi. Còn các đội đào ao, làm đường, đập đá thì cứ tiêu chuẩn nhà nước chén cơm, chén khoai mì và muỗng nước muối mỗi ngày và chờ gia đình.

Hình ảnh của khu kinh tế mới Xuân Trường bên cạnh trại làm cho anh em tù càng lo nghĩ về gia đình nhiều hơn. Họ là những người dân nghèo ở Saigon trong những ngày đầu sau 30-4-1975, họ được cấp phát gạo cứu đói, sau đó lãnh gạo cứu đói là một lý do vững chắc để phải đi vùng kinh tế mới, họ cũng còn là gia đình của những sĩ quan viên chức đi cải tạo vì sợ nên sớm chấp hành chính sách giãn dân; những người đi sớm nên còn được đến vùng Long Khánh này không có nước độc. Những người bị cưỡng bức về sau bị đưa lên các vùng Bình Long, Sông Bé, Tây Ninh, nước độc và sốt rét chết bao nhiêu người. Làm ngoài bãi lao động gặp những trẻ em, phụ nữ đi tìm rau dại, đi mót ngô, khoai mì còn sót trong các ruộng của trại cải tạo. Khu kinh tế mới nghèo lắm, nhà cửa được làm sơ sài không che nổi nắng. Trời mưa thì dột như xối, đó là công trình của thanh niên xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới cho dân. Chế độ Cộng sản người ta làm gì cũng giả dối, cái gì rồi người dân cũng phải chịu không ai dám phê bình phản đối. Nếu đọc báo những bài phóng sự về công tác của thanh niên xung phong, người ta có cảm tưởng đó là hiệp sĩ của thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng có ở vùng kinh tế mới, có biết một vùng kinh tế mới, thì sẽ thấy cái tinh thần tắc trách của đám “hiệp sĩ” đó.

Tin về một vụ tự tử ngoài khu kinh tế mới làm trong trại xôn xao. Hai chị em gái đang tuổi thanh niên, cha là một sĩ quan đi cải tạo, mẹ ở nhà đi mất biệt theo tình nhân mới, bỏ lại 5 đứa con, hai gái lớn và 3 con trai. Cô chị 18, cô em 16 phải bỏ học ở nhà bán chợ trời nuôi em. Vừa buôn bán chợ trời, vừa bán đồ nhà tưởng đắp đổi qua ngày chờ cha cải tạo hoặc mẹ hồi tâm trở về. Không may nhan sắc cô gái 18 tuổi lọt vào mắt xanh của tên bí thư phường ủy, tuổi đã gần 40, thuyết phục giúp đỡ để dụ dỗ không xong, đến đe dọa cô gái vẫn không chấp thuận. Tên bí thư phường đã trả thù bằng cách đưa cả gia đình đi kinh tế mới. Năm chị em mới ngày nào sống dưới sự che chở của cha mẹ êm đềm hạnh phúc; thời thế đổi thay, xáo trộn đời sống nhưng trời xanh cay nghiệt lại bắt các em chịu sự thay đổi nặng nề quá.

Không tiền, không sức khỏe, không biết làm nông, nhận một căn nhà lụp xụp trên đồi tranh, các em không biết cách gì để sống ngoài đi làm lặt vặt như mót củi, hái rau. Chịu đựng không nổi hoàn cảnh đó, hai chị em gái đã tự tử chết để lại bức thơ, hai em cho biết mua thuốc độc về định giết chết cả 5 chị em, cuối cùng nhìn các em còn thơ ngây hai chị lại không nỡ nên nhờ bà con trong khu thương tình nuôi giúp ba em, chờ ba mẹ về nhận. Bà con khu kinh tế mới đem xác hai em chôn trên một ngọn đồi nhìn vào trại cải tạo như để hai em trông chờ một người cha trong đó.

Thảm kịch làm bàng hoàng mọi người tù, ai cũng thương cảm các em và trách người mẹ – người nào cũng liên tưởng đến bản thân mình, đến vợ con ở nhà, qua ba năm cải tạo bao nhiêu là cay đắng. Nhiều người vợ vẫn kiên trì nuôi con chờ chồng, nhưng thời gian còn dài, hoàn cảnh kinh tế càng khó khăn, sức người có hạn, mỏi mòn trông ngóng và chịu đựng không biết đến bao giờ.

Thảm kịch của hai em nhỏ vùng kinh tế mới chưa hết xúc động thì thêm một chuyện đau lòng khác lại được truyền lan trong trại. Chuyện riêng của một người nhưng cũng thành cái đau chung của mọi người. Kỳ thăm gặp vừa qua, vợ bác sĩ T lên thăm để từ giã anh, chị báo tin là thăm lần cuối cùng. Bác sĩ T còn trẻ, anh là một Đại úy Bác sĩ trưng tập. Chị T đẹp lắm, “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, ông trời thật đa đoan, không cho ai hạnh phúc trọn vẹn; nhất là ông trời cay nghiệt với phái yếu, người con gái sinh ra không có nhan sắc đã là cái khổ cho họ và nếu có nhan sắc rồi cũng chịu cái khổ do đời đưa đến. Chồng đi cải tạo, chị T dấn thân đi buôn bán để nuôi gia đình – chị đi buôn hàng lậu từ Nha Trang về. Nói là hàng lậu nghe ly kỳ nhưng sự thật chị đã đi buôn cà phê; cà phê dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là một thứ quốc cấm. Khối xã hội chủ nghĩa chỉ mới có Việt Nam là xứ nhiệt đới, nên sản phẩm nhiệt đới như trà, cà phê, hồ tiêu, quế, trầm hương đều trở thành món hàng hiếm có trong khối các nước anh em. Việt Nam là con nợ, bán hàng trả nợ, nợ súng đạn mà lúc sinh tiền ông Hồ đã cả quyết là con cháu sẽ trả được. Ông đâu có biết được khi ông quyết định dùng súng đạn đánh miền Nam rồi con cháu sẽ trả nợ súng đạn đó, sẽ đem lại sự đau khổ cho dân chúng đến bao giờ không? Khi chiến tranh thì khổ sở chết chóc vì bom đạn; hết chiến tranh thì phải dồn nỗ lực để trả nợ. Ông đày ải dân chúng từ thế hệ này qua thế hệ khác để thỏa mộng giải phóng của ông.

Miền Nam trước 1975, người ta chỉ sợ chết vì chiến tranh mà không sợ đói, không có người tự tử vì đói, không có cán bộ hạ tầng cưỡng bức dân, không được ép dân đi kinh tế mới. Không có tình trạng người đàn bà vừa phải nuôi con, vừa phải nuôi chồng trong tù. Miền Nam trước đây có trại tù, nhưng tù được nuôi no đủ. Ông có biết cán bộ của ông ở tù đấu tranh vì mỗi ngày phải ăn cá khô, mà là cá khô sặc, Hoàng Quốc Việt viết: “Bọn ngụy quyền tàn ác bắt tù phải ăn cơm với cá khô mỗi ngày.” Ông có biết là những người cán bộ thấy bị ăn cơm với cá khô mỗi ngày là một việc không chấp nhận được. Khi họ nắm chính quyền, họ cho tù ăn gì không? Gạo hẩm với nước muối đã là một ân huệ, phải ăn độn đến 80%; mỗi tuần chỉ có hai buổi cơm, còn 12 buổi khác phải ăn khoai mì mục. Cá khô không bao giờ có trong nhà tù của chế độ ưu việt do ông lập ra, nếu có cá khô đó là một bữa đại tiệc của tù trong chế độ Cộng sản. Miền Nam trong thời chiến tranh bị xem là lệ thuộc kinh tế, nhưng người dân được đầy đủ tất cả, cà phê, trà, tiêu, là những sản phẩm tự do, ai muốn mua bán cũng được, lúc nào cũng có, không phải là thứ qui hoạch nhà nước và bị xem là hàng quốc cấm.

Trước kia người dân miền Nam buôn bán gạo, nông sản người ta kể hàng trăm tấn, hàng ngàn tấn. Theo lời kể của cán bộ đó là phồn vinh giả tạo, nhưng đến khi “đất nước ta hòa bình, đất nước ta giàu đẹp, tiền rừng bạc bể do những đỉnh cao trí tuệ của loài người, lương tâm của thời đại, do Bác muôn vàn kính yêu của đảng Cộng sản bách chiến bách thắng và chủ nghĩa Mác Lê Nin vô địch” thì buôn bán gạo trên giỏ hàng vài ký, nông sản khác cũng buôn lậu tính theo đơn vị hàng ký lô. Người dân được cho ăn nhiều từ ngữ đẹp để thay cho gạo cơm.

Chị T đã đi buôn lậu cà phê từ Nha Trang về Saigon. Đi buôn lậu nhờ sự che chở của những bọn tài xế và lơ xe đò hoặc phải móc ngoặc với bọn công an. Chị đã kể lại với anh T là chị đi nhiều chuyến qua cũng kiếm được ít tiền để nuôi gia đình, lúc đem hàng lên xe nhờ tài xế cất giấu cán bộ, chị góp vốn buôn càng ngày càng nhiều hơn. Sự đời đâu có trôi êm ả cho một người đàn bà trẻ cô thế mà lại đẹp não nùng. Tài xế xe đò là tên gian ác, nó lừa hôm chị mua nhiều cà phê, nó chạy xe đến trạm nghỉ buổi tối, trắng trợn đề nghị chị phải ăn nằm với hắn, nếu không đến trạm gác công an, hắn sẽ chỉ để công an bắt. Khó khăn nào bằng khó khăn của chị T lúc đó, phải chọn một bên là tiết hạnh, danh dự một bên là cái ăn của gia đình. Cuối cùng chị đã đành nhắm mắt để bảo vệ món hàng. Chị quá đau khổ, thấy không còn xứng đáng với chồng nên chị quyết định lên thăm anh và nói sự thật với anh T lần cuối cùng rồi đem con ra khỏi gia đình chồng. Tai nạn của chị T không phải chỉ một mình chị mà là một trường hợp khá phổ biến – nhiều người đàn bà đi buôn hàng chuyến trên xe đò, xe lửa đã phải trao đổi thân xác với bọn công an, với bọn tài xế, bọn lơ xe là những thành phần ưu thế của xã hội mới, nhưng nhiều chị đã giấu giếm rồi trở thành quen. Chỉ có chị T là dám nói sự thật với chồng. Còn đau khổ nào cho người đàn bà Việt Nam nữa không?

Sự an nguy bền vững của gia đình bây giờ là mối quan tâm chính của người cải tạo, hầu hết đều có vợ, có con. Có người trách chị T là đầu hàng hoàn cảnh dễ dàng. Làm sao trách một người đàn bà khi người đàn ông không bảo vệ được họ. Đến tuổi lấy chồng, cô gái nào cũng muốn được trao thân cho người đàn ông họ tin tưởng sẽ bảo vệ và đem hạnh phúc suốt đời cho họ. Những đổ vỡ nếu không trực tiếp cũng gián tiếp là cái lỗi của người chồng. Người đàn ông không bảo vệ được đất nước làm sao giữ được sự bình an cho gia đình. Từ xưa đến nay, kẻ xâm lăng nào cũng chiếm đoạt của cải, tài sản và phụ nữ, giết chóc và nô dịch đàn ông.

Cộng sản miền Bắc cũng vậy, họ đã chiếm của cải của miền Nam đem về miền Bắc, tài sản của dân họ không trực tiếp cướp đoạt thì bằng cách đổi tiền, đánh tư sản họ làm cho dân miền Nam nghèo đi phải đem đồ vật ra bán, rồi họ tung tiền, thứ giấy lộn được in không bảo chứng ra vơ vét mua hết. Đàn bà họ không trực tiếp chiếm đoạt như kiểu quân Hung Nô thời trước, thì họ bằng nhiều cách làm cho gia đình người miền Nam ly tán, người đàn bà miền Nam trước khó khăn về đời sống, cán bộ của họ giả nhân giả nghĩa giúp đỡ, dụ dỗ, gây tình cảm hoặc mạnh hơn là ép buộc đe dọa, cuối cùng nếu không tự ý hoặc gượng ép kết hôn với cán bộ thì phải đi vùng kinh tế mới hoặc phải chịu đối xử như là một loại dân hạng bét bị mọi thứ kỳ thị bất công. Họ ban hành luật gia đình qui định việc ly dị dễ dàng phá vỡ hệ thống gia đình theo tập tục cổ truyền, trong đó chồng đi cải tạo là lý do luật pháp xem là chính đáng để người vợ ly dị.

Hoàn cảnh xã hội như vậy làm sao trách người đàn bà tội nghiệp. Hãy tôn vinh những người đàn bà vượt qua mọi khó khăn để thủ tiết chờ chồng cải tạo, và yên lặng thông cảm cho những người đàn bà có những quyết định khác. Cảm thông chứ không phải tha thứ vì người đàn ông làm mất nước, lỗi lầm còn nặng hơn nhiều thì còn tư cách gì để nói chuyện tha thứ cho người khác.

Sau đợt cho về đông đảo dịp Tết 1978 dành cho những người cải tạo ngắn hạn dưới ba năm, từ giữa năm 1978 hầu như không có đợt về nữa, chỉ có trường hợp lẻ tẻ. Cán bộ trại giải thích rằng do tình hình bên ngoài chưa thuận tiện hoặc là cải tạo bước qua mốc khác. Nếu bình tĩnh thì thấy rõ ràng là thời gian cải tạo của anh em trình diện kéo dài, nhưng Việt Cộng vẫn tiếp tục mánh lới giảo hoạt lừa đảo, chúng không cho người tù thất vọng, nên bằng mọi cách tung ra nhiều tin tức thất thiệt về những đợt sắp thả. Chúng không nói hay hứa hẹn công khai trong các buổi học tập như trước: “chuyện về của các anh tính hàng giờ, hàng ngày không tính hàng tháng, hàng năm”. Chúng gián tiếp tung tin qua người bán hàng rong cho gia đình thăm nuôi để gia đình nói lại, hoặc hai cán bộ đứng nói chuyện với nhau: “ kỳ lễ tới cải tạo về hết rồi lấy ai làm đây.” Chúng nói với nhau nhưng biết có người tù đứng gần đó nghe lén. Người này nghe được tin phấn khởi về trại nói ra. Chúng nhờ người tù khéo tay may quần áo, hẹn 10 ngày lấy, rồi đột nhiên sau vài ngày đến lấy, cán bộ giục: “anh may gấp giùm tôi kẻo sợ không kịp”. Người tù hỏi tôi còn ở lâu làm sao không kịp? Hắn úp mở: “Biết đâu đấy, gần đến lễ các anh về hết thì sao?” Người tù nghe như mở cờ trong bụng. “Lễ có lịnh về hở cán bộ?” Hắn làm ra vẻ bí mật: “Làm sao nói được, anh phải tự nghĩ ra chứ…” Ban giám thị bảo một vài đội bỏ bớt một khoảnh đất canh tác – tù nghi ngờ bàn tán, rồi có người tù thân tín với cán bộ quản giáo hỏi vì sao thu hẹp hoạt động, cán bộ quản giáo trả lời: “Nay mai các anh về hết lấy ai làm” v.v… Đủ mọi cách, cán bộ thì tiếp tục bịp và tù tiếp tục tin và ngoan ngoãn chấp hành vì e nếu mình không chấp hành vi phạm lỗi gì khi có tên sẽ bị giữ lại. Việt Cộng quản lý tù rất nhiều kinh nghiệm, người tù không có án mong đợi ngày về, ngày mai có thể về, đợi mãi, đợi mãi và ngoan ngoãn chấp hành mãi, không bao giờ để cho tù nhân quá thất vọng – thất vọng tù có thể trốn trại, chống đối hoặc không làm lao động.

Những anh em tù bị bắt ít hy vọng ngày về hơn nên không tin vào những sự hứa hẹn và những tin đồn, anh em gọi đó là “thuốc an thần” – anh em cứ chuẩn bị những cơ hội thoát thân.

Những lần có người trốn trại, anh em phấn khởi, bạn bè thoát thân được xem như mình thoát. Hình như ai cũng như ai, khi nghe ba phát súng báo động mọi người đều ngước mắt lên sáng rỡ và thầm cầu xin cho bạn mình thoát khỏi sự truy lùng vì nếu bị bắt lại thì sẽ bị cắt gân chân hoặc đánh hội đồng cho đến chết, nếu không bị đánh chết thì bị cùm vào xà lim thiếu ăn, bị bệnh hoạn như ho lao rồi cũng sẽ bị chết.

Thấy tù có nhiều hành động chống đối, bọn chỉ huy một mặt trấn áp, đe dọa nhưng mặt khác lại tìm cách xoa dịu, ban ân, chúng làm thêm nhà thăm gặp để gia đình có thể ngủ lại, gọi đó là nhà hạnh phúc và ban qui chế hưởng ân huệ về nhà hạnh phúc. Những trại viên thực hiện tốt 4 chỉ tiêu cải tạo và được cán bộ quản giáo đề nghị. Bốn chỉ tiêu cải tạo là:

– An tâm tin tưởng vào chính sách của Đảng và nhà nước.

– Lao động học tập tốt.

– Phê và tự phê, để giúp đỡ người khác tiến bộ.

– Phát hiện hành vi sai trái của người khác và báo cáo.

Hai mục trước liên hệ đến thái độ chấp hành và hai mục sau tức là làm tay sai báo cáo bạn bè. Ngoài ra phải làm vừa lòng cán bộ quản giáo, tức phục dịch bản thân của hắn để được hắn chấp thuận phê tốt.

Phần thưởng cho việc này là được ở lại đêm với vợ tại “nhà hạnh phúc”. Qui chế ban hành, nhiều anh em phấn khởi chấp hành, đa số bên thành phần trình diện, xa gia đình, xa vợ đã ba năm nay được gần gũi một đêm, đề nghị quá hấp dẫn, ai trách được sự thèm muốn rất người đó. Nhưng muốn được cái “hạnh phúc” nhỏ nhoi đó phả bước qua sự đau khổ của bạn bè. Đa số anh em trẻ bên thành phần bị bắt họ chống đối, bài xích những người được phần thưởng này. Tôi nhớ mãi câu nói của Nam, cậu bé ở tù từ năm 1976 lúc 16 tuổi vì đã hát bản Thu Vàng trong lớp học ở trường Đạt Đức, Nam hỏi một người sĩ quan được hưởng nhà hạnh phúc: “Người ta đem vợ anh ra làm giải thưởng mà anh cũng nhận sao?” Dĩ nhiên là người bạn sĩ quan rất khó trả lời. Ai bảo tuổi trẻ không sâu sắc. Hưởng một ân huệ của Việt Cộng không phải dễ và phải trả một giá đắt, nhiều khi cái giá của lương tâm. Còn ân huệ thì chính Việt Cộng không bỏ ra, nó lấy của chính người tù để cho họ hoặc lấy của bạn bè cho họ. Những anh em đi làm lẻ, đi làm các công tác đặc biệt như trật tự, thi đua, thăm nuôi, văn hóa, nấu bếp, chăn nuôi đều được cho tiêu chuẩn ăn cao hơn tù khác, nhưng phần ăn của họ cũng lấy trong tiêu chuẩn chung của tù ở nhà bếp, Việt Cộng không bỏ thêm ra một hột gạo. Do đó, trong trại tù, những anh em tự trọng biết suy nghĩ đều từ chối tất cả ân huệ của Cộng sản cho họ và từ chối tất cả công tác riêng rẽ. Họ xem như là ăn trên mồ hôi và sống trên sự an nguy của anh em.

Nói đến tốt hay xấu cũng tùy quan niệm, luân lý Cộng sản người nào báo cáo người khác, rình mò đời sống người khác họ cho đó là cá nhân tốt, người tù tiến bộ. Nếu không làm những hành động đó là thành phần xấu.

Khi người ta thuần tính là một con thú người ta bảo con thú ngoan, nuôi một con chim, thả ra chim không bay vào bầu trời bao la mà quanh quẩn bên chiếc lồng, gọi con chim đó khôn. Người tù ngoan ngoãn chấp hành, có cơ hội không đào thoát, gọi đó là người tù tốt, người tù tiến bộ. Con thú sống với rừng xanh, con chim bay trong bầu trời và con người phải có tự do, người cai tù quên điều đó, nhưng tù không thể quên được. Sự chống đối trong nhà tù để duy trì mức đề kháng và giữ ý thức tự do.

 

 

Những bài mới đăng

Mùa Thu Lá Bay