Chương Tám
Cuối tháng 3 năm 1977 được chuyển qua phòng tập thể A Trại Trần Hưng Đạo, tức Nha Cảnh Sát Đô Thành cũ, có 5 phòng tập thể, phòng A, phòng B, phòng I, phòng II, phòng phụ nữ và một khu xà lim 26 phòng. Từ giã xà lim, thấm thoát đã sáu tháng. Người ta nói nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, tôi lại thấy thời gian đi quá nhanh. Có lẽ tôi kém cảm xúc. Tôi thèm nói chuyện và thèm ăn.
Cửa phòng tập thể vừa mở ra, tự nhiên phải lùi một bước, hơi nóng và mùi khói nồng nặc từ bên trong tỏa ra đủ thứ mùi, mùi thuốc lào, mùi thuốc rê khét lẹt, mùi mồ hôi người tanh tanh muốn lợm giọng. Hành lang hẹp chưa tới một thước bề ngang nằm giữa hai tường nhà cao, gió không thông dù cái quạt nhỏ gắn trên tường chạy suốt ngày để hút hơi ra. Cái cửa ra vào bị che kín một nửa bằng tấm tôle. Chiếc đèn néon một thước hai không đủ chiếu sáng cho căn phòng dài gần 10 thước nên ánh sáng lờ mờ, bệnh hoạn.
Phòng đông lúc nhúc mà im phăng phắc khi tên cán bộ hiện diện.
Ở tù tạm giam vừa sợ cán bộ vừa sợ trưởng phòng. Làm trưởng phòng phải báo cáo, rình mò tù nhân khác để lập công.
Trưởng phòng ghi tên tôi vào danh sách phòng số 68. Căn phòng nhỏ xíu, bề ngang chưa đến 4 mét, bề dài khoảng 10 mét, nhốt 68 người. Nằm ngủ phải thành ba lớp, những người vào phòng trước nằm ở trên bục xi măng, đến những người nằm trên nền nhà, gọi là phi đạo, kế đến những người vào sau thì nằm ngủ trong hầm để đồ đạc, ngay dưới bục xi măng. Trưởng phòng đọc cho tôi nghe 38 điều nội quy và những khoản gọi là nội lệ – Nội quy do Bộ Nội Vụ ban hành gồm những mục khai báo tội lỗi của mình và đồng bọn, tin tưởng vào chánh sách và sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước Cộng sản, tố cáo những tội lỗi của người khác, phải tham gia các buổi học tập, đọc sách báo, cấm giữ các vật bén nhọn, cấm truyền đạo, cấm nói tiếng nước ngoài v.v… Nội lệ là những điều trưởng phòng đặt ra do sáng kiến xây dựng của y. Tù nhân không được tụm lại rù rì nói chuyện với nhau. Khi nói chuyện phải nói cho đủ lớn cho một vài người bên cạnh nghe để chứng minh là không nói xấu chế độ. “Rù rì với nhau”, nhóm từ ngữ này do những trưởng phòng, đội trưởng ác ôn dùng để chụp mũ, báo cáo một phòng viên, đội viên khi họ không có một chứng cớ gì khác về sự nói xấu hay chống đối. Chế độ tù đày của Cộng sản trở nên quá ác nghiệt vì các luật lệ nguyên tắc quá nghiêm khắc, bọn cán bộ quản lý độc ác, mức độ lao động quá nặng, chỉ tiêu cao, tình trạng đói rét, từ đó nảy sinh ra một lớp người tù chức sắc trật tự, thi đua, thống kê, nhà trưởng, đội trưởng làm tay sai để được miễn lao động, để được ưu đãi khi nhận quà thăm nuôi; họ dùng sự sống, máu và nước mắt của bạn tù để được hưởng thêm ân huệ.
Tù mới vào không được nói chuyện với người khác, đó là nội lệ của phòng do phòng trưởng Nguyễn Thái Thao đặt ra. Tù mới vào nói chuyện là tuyên truyền xuyên tạc nói xấu chế độ. Tù nhân thường tò mò muốn biết những việc xảy ra ngoài đời, họ hy vọng những tin tức phấn khởi, họ muốn nghe những tin tức phục quốc. Thời gian cấm nói chuyện là bao lâu không biết. Tùy quyền trưởng phòng, tùy sự dặn dò của bọn cán bộ với trưởng phòng về một người tù cần theo dõi. Ở tập thể đúng là rắc rối hơn xà lim. Ở tập thể được đọc báo gọi là học tập báo chí để biết tin tức bên ngoài. Dù là tờ Nhân Dân hay Quân Đội Nhân Dân chỉ toàn là tuyên truyền cũng có thể rút ra những điều cần biết. Thời gian đó, sau Đại Hội IV của đảng Cộng Sản Việt Nam, những khẩu hiệu chiến lược được nhấn mạnh là “chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, và hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc và đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Nam”. Cộng Sản Việt Nam đã vội vã xây dựng xã hội chủ nghĩa cả nước, không còn chần chừ như ý định lúc đầu mới chiếm được miền Nam. Đầu năm 1976, Phạm Văn Đồng còn tuyên bố miền Nam làm cuộc cách mạng dân chủ nhân dân. Tình thế gay go trong mâu thuẫn với Trung Hoa buộc Việt cộng phải đưa ra khẩu hiệu chiến đấu, như vậy chiến tranh với Trung Quốc không tránh khỏi. Báo Nhân Dân cũng nói về mâu thuẫn không hàn gắn được giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Lý Tiên Niệm tuyên bố mâu thuẫn Trung Quốc-Liên Sô phải 800 năm mới giải quyết được – tức là không giải quyết được. Đặng Tiểu Bình đã được Hoa Quốc Phong mời trở lại chính quyền và được đặc quyền xử Tứ Nhân Bang là những người đã loại Đặng Tiểu Bình ra khỏi các chức vụ vào năm 1976, sau vụ lộn xộn đẫm máu tại Bắc Kinh nhân lễ truy điệu 49 ngày Chu Ân Lai chết.
Những tin tức đó cho tôi hy vọng là tình hình Đông Dương và Việt Nam chưa phải là kết thúc, còn nhiều biến chuyển. Hy vọng của người tù cũng cần như cơm, nước; người tù tuyệt vọng rất mau suy sụp và dễ chết.
Tôi gặp Huệ Nhật trong phòng này. Huệ Nhật, người đã ở xà lim số 13 được 4 tháng 23 ngày, người đã ghi lại bài thơ vừa đầy hào khí và phóng khoáng. Tôi đoán không sai là một nhà sư. Huệ Nhật là một Đại đức thụ phong năm 23 tuổi, tốt nghiệp Phật Học Viện và Cử nhân khoa học xã hội Đại học Vạn Hạnh. Đại Đức bất mãn khi khám phá ra thầy mình, một Thượng tọa, dùng tiền phước sương cho vay và gửi về nhà cho thân nhân, nên đã bỏ tu về đời làm cho Hội Terre Des Hommes. Huệ Nhật bỏ tu nhưng đạo hạnh vẫn thể hiện qua lối sống hàng ngày. Anh dùng cả thì giờ chăm sóc cho những người tù bịnh hoạn ghẻ lở. Bịnh kiết lỵ là bịnh rất thông thường trong tù, dễ lây và nguy hiểm nên ai cũng sợ, người bịnh kiết lỵ nằm cô lập trong cuối phòng – thuốc men của nhà tù không có nên chỉ có cách khắc phục, nếu không khắc phục được thì đến lúc thật trầm trọng mới được đưa ra bệnh viện và nhiều người đã chết. Tôi khâm phục Huệ Nhật khi thấy anh kiên nhẫn bồng bế những người kiết lỵ đi cầu mỗi ngày hàng mấy chục lần, lau rửa cho họ mà không sợ dơ bẩn hay lây bịnh. Cuộc đời Huệ Nhật cũng có điều đáng ghi, gia đình nghèo ở Quảng Trị, Huệ Nhật được mẹ gởi vào chùa lúc 9 tuổi khi cha Huệ Nhật, một du kích bị Pháp bắt tra tấn đến chết. Huệ Nhật kể rằng suốt đời không quên hình ảnh người cha bị cột căng chân tay phơi nắng trong sân đồn Tây đến chết. Anh của Huệ Nhật đã đi kháng chiến và tập kết ra Bắc, sau 30-4-75, trở về nhà với quân hàm Đại úy. Huệ Nhật căm thù Pháp và rất ghét chính quyền Cộng Hòa, anh đã tham gia các phong trào Phật giáo tranh đấu và có lần đã tình nguyện tự thiêu ở Nha Trang: cuộc tự thiêu bất thành vì quẹt không cháy sau khi đã đổ can xăng bốn lít vào mình. Sau này, Huệ Nhật biết là một vị sư không muốn Huệ Nhật chết lén đổi hộp quẹt đã nhúng nước lạnh.
Sau 30-4-75, anh rất hồ hởi phấn khởi, xem sự thành công của cách mạng như sự thành công của gia đình và bản thân anh. Tham gia tích cực vào Hội Phật Giáo Yêu Nước, hoạt động suốt ngày không biết mệt mỏi. Nhưng cũng chính từ những hoạt động trong Hội Phật Giáo Yêu Nước, Huệ Nhật đã khám phá ra nhiều sự thật. Trước hết, Huệ Nhật thấy được hàng ngũ tăng sĩ và cư sĩ của Phật giáo có hai thành phần rõ rệt, một thành phần đa số là những người đấu tranh cho lý tưởng Phật giáo và dân tộc, và một số là đảng viên Cộng sản xâm nhập. Nhớ lại quá trình đấu tranh của Phật giáo từ những năm 1963, 1964, 1966 Huệ Nhật thấy rõ những cán bộ Cộng sản trong Phật Giáo luôn luôn tích cực xúi giục mà họ không trực tiếp hành động và trực diện đấu tranh. Lấy kinh nghiệm lần tình nguyện tự thiêu ở Nha Trang, Huệ Nhật nhớ lại chính những cán bộ Cộng sản đó, trong lớp áo tu sĩ, hoặc là cư sĩ là những người tích cực thúc đẩy Huệ Nhật tự thiêu, họ động viên, khích lệ kể cả cô lập để Huệ Nhật không thể thay đổi ý kiến được. Là người nhạy cảm, Huệ Nhật đã thấy rõ Cộng sản chỉ đứng giật dây, thúc đẩy quần chúng và những người có nhiệt tâm trực diện với cái chết để họ lợi dụng thành quả. Điều khám phá quan trọng khác của Huệ Nhật là những hành động bê bối của những vị sư mà Huệ Nhật gọi là sư quốc doanh trong Giáo Hội Phật Giáo Yêu Nước, họ mặc áo nhà tu mà không từ bất cứ hành động phạm giới nào kể cả sắc giới. Huệ Nhật đã bỏ về nhà ở tại quận Nhà Bè. Ở đây anh lại thấy rõ hơn bộ mặt của cán bộ Cộng sản tại địa phương. Không xa Saigon mà biết bao nhiêu oan khuất của người dân xã Phú Xuân huyện Nhà Bè phải chịu về nạn cường hào ác bá. Huệ Nhật chứng kiến cảnh cán bộ Việt cộng cưỡng chiếm nhà của người dân, những người không thuận giao nhà bị ném truyền đơn phản động rồi bắt nhốt, nhiều người nghĩ mình không có quan hệ với chính quyền cũ, nên ăn nói không giữ miệng nhằm chỉ trích những bất công thì bị thủ tiêu, gia đình tìm được xác liệng ngoài đồng ruộng mới biết thân nhân bị chết.
Nhiều phụ nữ bị bắt vào trung tâm phục hồi nhân phẩm rồi đưa đi trại cải tạo chỉ vì không thuận theo lời tống tình của cán bộ xã, ấp của Việt cộng. Yêu cách mạng, mong cách mạng đem lại công bình cho xã hội, hạnh phúc cho người dân, nhưng khi cách mạng thành công, tham dự vào hàng ngũ của những người cách mạng, Huệ Nhật đã tìm ra sự thật. Anh đã gia nhập vào một tổ chức phục quốc để mong làm một cuộc chiến đấu mới – chưa kịp hoạt động đã bị bắt.
Tôi cũng gặp Nghĩa, người cán bộ Cộng sản sớm “thoái hóa”, bị bắt cả hai vợ chồng vì tội lợi dụng chức vụ để chở hàng ra Bắc bán lấy lời riêng. Nghĩa làm Trưởng phòng Nội Thương Sở Kinh Tế Thành Phố.
Nghĩa quê ở Rạch Giá. Sau khi thi đậu Brevet ở Cần Thơ, Nghĩa vào khu kháng chiến và đi tập kết năm 18 tuổi ra miền Bắc, đầu tiên đi học khóa cải cách điền địa. Nghĩa nói ấn tượng sâu sắc trong trí óc Nghĩa là một sự kinh hãi khi anh tham gia phong trào cải cách ruộng đất. Anh không tưởng tượng được việc nhà nước và đảng giao toàn quyền sinh sát người dân vào tay toán cán bộ cấp thấp chỉ được huấn luyện hận thù và kỹ thuật trấn áp và thúc đẩy quần chúng đấu tranh và nhắm mục tiêu báo cáo thành tích. Chỉ cần đạt được thành tích nên toán cải cách phải tìm cho ra địa chủ để đấu tố, kết quả là có nhiều xã nghèo, không có địa chủ để đấu tố, những trung nông có vài mẫu ta ruộng (chưa được một ha) cũng bị nâng lên hàng địa chủ, để đưa ra tòa án nhân dân và họ bị bắn chết ngay sau khi bị nhân dân kết án. Khi nạn nhân đã được đưa ra tòa thì nhân dân kể cả thân nhân của họ phải tìm cho ra tội ác của họ để tố cáo. Tội lỗi đều là tưởng tượng.
Sau chiến dịch cải cách, Nghĩa được đi học ở Ba Lan, anh đã thấy được tinh thần đấu tranh của nhân dân Ba Lan và nhân dân các nước Đông Âu nhắm vào đảng Cộng sản cũng như vào sự chiếm đóng của Liên Sô. Nghĩa đã đi theo kháng chiến vì lý tưởng giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ, anh không có một ý thức nào về đấu tranh giai cấp, theo anh nếu nói đấu tranh giai cấp thì chính gia đình anh ở Rạch Giá cũng có thể liệt vào hàng địa chủ.
Theo lý thuyết đảng Cộng sản và chế độ Cộng sản là của người công nhân vô sản, không làm chủ tư liệu sản xuất. Họ phải bám vào nhà máy cũng như bám vào chính quyền vô sản để có lương hàng ngày. Nên nông dân khó trở thành Cộng sản vì nông dân dễ có tư hữu. Do đó, vì phải xây dựng chủ nghĩa Cộng sản dựa vào nông dân (vì không có công nhân) nên Cộng Sản Việt Nam cũng như Trung Cộng phải làm cho nông dân thật nghèo đói, tất cả trở thành bần cố nông, để họ phải bám vào nông trường quốc doanh, bám vào nhà nước, và trung thành với đảng để được sống. Từ đó nông dân miền Bắc và miền Trung sau đợt cải cách chỉ còn cách bám víu và trung thành với đảng; nông dân miền Nam hầu hết đều có ruộng đất, đa số từ trung nông trở lên, nên Cộng sản khó có thể thi hành một cuộc cải cách ruộng đất như miền Bắc, khó có thể khích động nông dân hận thù địa chủ.
Nghĩa nói: “Ngày đầu tiên đi học lớp cán bộ cải cách ruộng đất, người giảng viên đứng tố vợ chồng tên địa chủ gian ác, phạm đủ các tội như hiếp dâm vợ con tá điền, cho vay nặng lãi, bỏ bã rượu vào ruộng người dân rồi báo cho Tây đoan bắt bỏ tù người đó để hắn ta mua rẻ ruộng đất v.v… Sau khi tố mọi tội lỗi của vợ chồng địa chủ, người giảng viên mới nói với học viên rằng vợ chồng tên địa chủ đó là cha mẹ của ông ta, họ còn có tội là nuông chiều ông, dạy cho ông nếp sống quan liêu phong kiến xa rời quần chúng cho đến khi ông may mắn được Bác Hồ và Đảng giác ngộ dạy dỗ. Người giảng viên tố cha mẹ đó là Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh”.
Nghĩa nói lúc anh nghe bài giảng anh lạnh cả gáy, anh nghĩ là một người không có hiếu với cha mẹ của mình thì làm sao hiếu với dân như Đảng dạy. Nghĩa nghĩ nhưng không bao giờ dám phát biểu ý nghĩ của mình. Sau này anh hiểu thêm là chiến dịch cải cách ruộng đất buộc tất cả các cán bộ trong quân đội cũng như trong chính quyền thuộc gia đình trung nông, tiểu tư sản trở lên phải kiểm điểm bản thân và gia đình. Càng nhận nhiều tội, càng tố cáo nhiều tội lỗi của cha mẹ càng được công nhận là giác ngộ cách mạng và có đảng tính cao.
Bác Hồ và đảng chủ trương đẩy mạnh chính sách đó, nhằm mục đích tách đảng viên khỏi gia đình; cắt đứt sợi dây liên lạc máu huyết để đảng viên không còn cái gì bám víu ngoài đảng, buộc họ phải trung thành với đảng.
Theo Mác và Lénine, đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân. Việt Nam chưa phát triển công nghiệp, không có giai cấp công nhân – nên theo lý luận của Mao Trạch Đông, đảng Cộng Sản Trung Quốc và đảng Cộng Sản Việt Nam phải xây dựng trên nông dân. Nhưng nông dân phải là bần nông và cố nông mới là thành phần lãnh đạo.
Thực tế, bần nông và cố nông không có khả năng, không học vấn không thể lãnh đạo cách mạng. Do đó, họ cần đến những người trí thức, tư sản và tiểu tư sản đầu hàng giai cấp một cách triệt để. Trường Chinh là mẫu tiêu biểu. Con địa chủ, có học vấn trung học, nên muốn lãnh đạo Trường Chinh mở đầu cho phong trào đấu tố cha mẹ là địa chủ. Sau đó, các cán bộ đều phải đấu tố cha mẹ mình. Đa số vì sợ và vì con đường tiến thân, vì sống trong guồng máy, họ đã theo gương Trường Chinh làm việc trái với đạo lý dân tộc. Nhưng cũng có nhiều người không thể làm được, họ bị loại ra khỏi quân đội, khỏi chính quyền và đảng. Có nhiều người bị bức bách đấu tố cha mẹ xong, sau đó ân hận đã tự tử, có người đã trở nên bất bình thường. Kết quả hàng trăm ngàn người bị giết trong cải cách ruộng đất, hằng trăm ngàn người bị đày ải trong các trại cải tạo, cho đến năm 1975 có người chưa được thả và hàng triệu người bị bức bách bỏ quê hương lên cư trú ở miền rừng thiêng nước độc như Sơn La, Hoàng Liên Sơn.
Sau cuộc cải cách, đảng và Bác giả làm như sửa sai, Trường Chinh và Lê Văn Lương bị hạ tầng. Nhưng thực sự đối với đảng, đối với Bác Hồ, họ đã thành công trong việc gieo mối sợ hãi khủng khiếp trong dân chúng để củng cố quyền cai trị độc đoán và phá vỡ nền móng gia đình của một dân tộc xem gia đình, xã thôn là những tổ chức căn bản của xã hội. Ở miền Bắc dân chúng không ai dám nhắc, và muốn nhắc đến những phong trào như đàn áp trí thức trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, và sự đấu tố trong phong trào cải cách ruộng đất. Giới trẻ thì họ không biết rõ ràng, nhưng những người trung niên lớn tuổi thì như là một vết hằn đau thương trong tâm hồn và ký ức mọi người. Không ai dám nhắc tới nhưng không ai quên được.
Cộng sản chiếm được miền Nam, họ bị hụt hẫng rất nhiều, những gì phong trào Cộng sản có thể làm được, miền Nam đã giải quyết trước; những điều họ có thể vận động quần chúng làm cách mạng như ở miền Bắc, miền Nam đã làm. Xóa nạn mù chữ, giải phóng phụ nữ, bình đẳng chủ thợ, người nông dân có ruộng v.v… miền Nam đã làm trước. Những ngày đầu khi bước chân vào miền Nam, những đầu óc già nua của cán bộ Cộng sản giở lại những việc làm vận động quần chúng như thời kỳ năm 1945 trở thành lạc hậu dưới con mắt của người dân miền Nam. Dân miền Nam thấy Cộng sản không có gì mới, không hay như có người đã lầm tưởng.
Đời sống kinh tế miền Nam phong phú nên con người miền Nam cũng phóng khoáng hơn, tinh thần đố kỵ nhau cũng ít. Cộng sản khó khơi động hận thù như họ đã thành công ở miền Bắc Việt Nam.
Hầu như người miền Nam không thích hợp với chế độ Cộng sản. Những cán bộ kháng chiến đi tập kết ra Bắc, dù có chính sách ưu đãi, họ vẫn thấy lúng túng với cuộc sống khó khăn, con người phải bon chen vất vả mới sống được. Do đó, cán bộ tập kết năm 1954, sau hai năm không có hiệp thương bầu cử, họ đã tranh đấu và đòi về miền Nam. Hồ Chí Minh ngoài việc ban hành chính sách ưu đãi cán bộ, bộ đội tập kết, phong cấp tướng cho những tư lệnh kháng chiến ở Nam Bộ như Mười Trí, Đồng Văn Cống, Huỳnh Văn Nghệ nhưng thực sự không mấy tin cậy họ. Do đó, các đảng viên Cộng sản gốc người miền Nam ngoài Phạm Hùng và Võ Văn Kiệt không mấy người đi sâu vào thành phần lãnh đạo cao cấp. Để lãnh đạo Nam Bộ Kháng Chiến, và sau này lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Hồ Chí Minh cử cán bộ người Bắc và Trung vào như Lê Duẩn, Trần Văn Trà, Trần Nam Trung, Trần Độ, Nguyễn Văn Linh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Thị Bình. Người gốc miền Nam chỉ giữ vai trò thứ yếu như Ung Văn Khiêm, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Trần Bạch Đằng… và cũng vì muốn trở về Nam, nên khi lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cán bộ tập kết đều được hồi kết và trong cuộc chiến đấu, ngoài sự lãnh đạo của Cộng sản, nguyện vọng muốn chiến thắng để trở về làm chủ quê hương của người miền Nam đã khiến họ hoạt động hăng hái, móc nối con em họ sinh trưởng ở miền Nam làm nội ứng và họ đã chiến đấu hăng say đến chiến thắng.
Nhưng sau khi chiến thắng rồi, những gì họ hiểu biết về đảng, về miền Bắc, và sự hiểu biết thêm về đời sống của thân nhân họ ở miền Nam khiến họ cảm thấy bị đánh lừa và chán nản và bắt đầu có tư tưởng chống đối.
Tiêu biểu nhất là trường hợp Huỳnh Văn Nghệ, Cựu Tư Lệnh quân khu 7. Nghệ là một người yêu nước sinh trưởng ở Biên Hòa, tham gia kháng chiến chống Pháp, nhờ tài quân sự trở thành tư lệnh phó khu 7 ở miền Đông Nam Bộ, Trong thời kháng chiến chống Pháp, Nghệ thắng nhiều trận, danh tiếng hơn cả Trần Văn Trà, đảng viên Cộng sản tư lệnh khu 7, do Hồ Chí Minh cử từ ngoài Bắc vào. Khi tập kết ra Bắc năm 1958, Nghệ và Đồng Văn Cống được mang quân hàm Đại Tá. Đến năm 1960, lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Nghệ hồi kết trở về hoạt động tại khu 7 tức là Vùng Ba Chiến Thuật vùng chiến khu D. Trong thời gian tổ chức chưa được chỉ thị đánh lớn, nhưng Nghệ nóng lòng vì tỉnh trưởng Phước Thành, Thiếu tá Mân bắt người chị của Nghệ, năm 1963, Nghệ đã tấn công chiếm tỉnh lỵ Phước Thành. Thời kỳ còn chiến tranh, cần sử dụng tài quân sự và uy tín của Nghệ ở các tỉnh miền Đông nên Nghệ được cử làm Tư Lệnh khu 7, nhưng sau khi chiến thắng, Nghệ bị điều qua làm Thứ trưởng Bộ Lâm Nghiệp phụ trách khai thác lâm sản mở mang vùng kinh tế mới khu vực Biên Hòa – Đồng Nai. Nghệ nhiều lần tỏ ra bất mãn, nên năm 1975 y bị giết một cách bí mật. Gia đình chỉ được thông báo lên bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện Vì Dân) để nhận xác. Vợ con Huỳnh Văn Nghệ thấy thi thể Nghệ đã được bó kín trong một lớp vải liệm trắng mà không được giải thích gì. Cái chết của Huỳnh Văn Nghệ được dư luận ở Saigon, Biên Hòa, nhất là trong số cán bộ tập kết bàn tán một thời. Nhiều cán bộ miền Nam hồi kết đã bị phục viên, một số bất mãn, hoặc nhìn thấy thực tế đã xin phục viên. Số còn lại thì tự lo lấy đời sống của mình vì không còn tin tưởng vào đảng, vào lãnh đạo. Nằm trong chính quyền họ cố làm ra tiền để chuẩn bị đời sống tương lai.
Tôi cũng gặp Trần Văn Lâm, cán bộ Công an quận 10, bị bắt vì lợi dụng cấp hộ khẩu lấy tiền mua nhà.
Lâm kể:
– Quê em ở Thái Bình, vựa lúa của miền Bắc nhưng dân đói quanh năm nhất là vào mùa giáp hạt, nhà nào cũng thiếu ăn. Ba em là Trung úy công an làm việc ở Hà Nội. Nhà em có 8 anh em vừa trai vừa gái. Em là con trưởng. Từ khi biết suy nghĩ đến giờ em thấy mẹ em suốt đời cực khổ vì lũ con nheo nhóc, ba em mỗi tháng về nhà một lần, mang theo một gói cơm khô, ông nhịn bớt phần ăn phơi để dành về nuôi chúng em. Ngoài gói cơm khô và mấy chục bạc lương ít ỏi, ba em không còn gì cho gia đình nữa, ông chỉ hứa hẹn là khi đất nước thanh bình đuổi được giặc Mỹ ra khỏi miền Nam thì nhân dân sẽ sung sướng. Ba em là người đảng viên trung thành của chế độ, nên lúc nào ông cũng thuộc lòng mớ lý thuyết đấu tranh giai cấp, lúc nào ông cũng Bôn (Bolsevick), và em thì chán ngấy mớ lý thuyết vô ích đó. Đối với em phải là thực tế gạo cơm và tiền. Cơm làm no bụng, “Bôn” không làm mình no, và tiền thì mua được đủ thứ.
Năm nào nhà em cũng đói hàng tháng, mẹ càng đẻ nhiều thì càng đói nhiều, nhà nhiều miệng ăn mà phần gạo mẹ chia ở hợp tác xã không tăng. Không kể năm mất mùa còn bị sụt. Có những tháng chúng em ăn cháo ròng rã, mỗi ngày mẹ nấu nồi cháo hai lon gạo thêm vài lon cám và dây khoai lang. Và nhiều lần mẹ em phải nhịn ăn để dành phần cho những đứa em bé. Có lần đi học về thấy mẹ nằm đói lả bên thằng em khóc đòi bú mà bếp núc chưa có đóm lửa. Mẹ nói nhà hết gạo, mới sai em gái sang làng bên vay gạo. Em chạy ra đường để đón đứa em vì trời đã nhá nhem tối. Gặp em gái trên bờ đê vừa đi vừa khóc vì bác không cho mượn gạo, bác chỉ cho một bó dây khoai lang và một đoạn cây chuối. Hai anh em đi về nhà mà tê tái cả lòng vì lạnh bên ngoài và rét cả bên trong. Nghĩ đến mẹ và 6 đứa em đang chờ gạo ở nhà; em không thể nào về không được nên em quyết định làm một việc mà từ lâu em vẫn suy nghĩ mà chưa dám làm. Em ăn trộm một trái mít của một gia đình lối xóm. Em nói với mẹ là mít của bác cho. Từ đó quen tính lấy tất cả những gì có thể lấy được, mẹ em chắc cũng biết em làm điều xấu, nhưng bà làm ngơ giả như không biết. Em đã lớn lên trong hoàn cảnh đó, em sớm hiểu giá trị của cơm áo, và em phải biết cách để kiếm nó.
Năm 17 tuổi, em thôi học lớp 9, hợp tác xã nông nghiệp cơ giới hóa một máy bơm nước, em được tuyển chọn đi Hà Nội học thợ máy vì em là con của một sĩ quan công an.
ở Hà Nội, em biết thêm không phải chỉ gia đình em đói, mà nhiều nơi khác cũng đói. Người ta từ làng quê kéo lên Hà Nội ăn xin, hoặc ăn trộm và cướp giật.
Anh nghĩ gì khi thấy một người vào cửa hàng giật một chiếc bánh của một người đang ăn, rồi hai tay tọng ngay chiếc bánh vào mồm. Trong khi người mất bánh dùng cả hai tay và sức lực để đấm vào bụng người ăn cướp, người ăn cướp cố trợn phùng mắt để nuốt, hắn không sợ bị đánh đau mà chỉ sợ chiếc bánh bị bật ra khỏi miệng.
Nhiều người bị bắt vào các trại tập trung, nhiều người đói quá cố tình phạm tội để bị bắt, vào trại tập trung còn có tiêu chuẩn ăn, còn ở ngoài họ tìm không ra. Nhưng trại tập trung quá đông, công an lại không muốn nhận số người “tình nguyện” nên chỉ giam ít ngày rồi thả.
Trại tập trung miền Bắc thật khủng khiếp, rồi thời gian tới anh sẽ biết thế nào là trại cải tạo, vậy mà đói quá có người quẫn trí muốn vào. Bên ngoài họ không tìm cái gì để ăn được.
Em nhớ đến gia đình của em đông anh em, không biết đến ngày nào thì tan rã vì đói; mình phải lo cứu bản thân và gia đình mình trước, còn lý tưởng cách mạng chỉ là chuyện xa vời. Sáu tháng học tập ở bộ cơ khí về việc điều hành máy bơm nước Hoa Sen. Trở về lại làng, em trở thành một người quan trọng. Hơn một nghìn hai trăm xã viên trông cậy vào một mình em điều khiển máy bơm nước để họ đỡ công tát nước khuya. Và em biết nắm lấy hoàn cảnh; cái máy nếu chạy tốt mãi thì không có gì lạ và mình trở thành người tầm thường, người ta sẽ quên cái công khó của mình, vì người ta nhận lãnh thành quả của em một cách tự nhiên. Do đó, em quyết định cái máy thỉnh thoảng phải hỏng, và nó hỏng những lúc ngặt nghèo nhất như lúc lúa đang ngậm đòng thì càng tốt. Những ngày em lui cui sửa máy là những ngày quan trọng và là những ngày mong đợi của bà con, khi máy chạy trở lại em được bà con cám ơn và xem như những người từ xa đến cứu họ. Đó là công việc làm ăn của em. Công điểm của em về coi máy mỗi ngày là 10 điểm; thì bây giờ nếu máy hư em sửa được máy phải tính thêm công điểm cho mẹ, hay cho em gái. Cũng vì cái tính quan trọng của máy bơm nước với cả hợp tác xã, nên khi sửa máy xong, thì ban quản trị nghĩ là phải có ăn mừng, gà, vịt, hay cá của hợp tác xã được chi vào những bữa tiệc đó, đâu có ai chịu riêng đâu, mọi phí tổn đều do hợp tác xã chịu. Không nói ra, nhưng có một thỏa thuận ngầm giữa chủ tịch hợp tác xã và em về chu kỳ hư hỏng của máy, cũng như những bữa tiệc sau đó. Những cuộc bình bầu 6 tháng, hay một năm cá nhân xuất sắc thì chủ tịch hợp tác xã là người hăng hái đề nghị bảo vệ cho em. Từ cá nhân xuất sắc của hợp tác xã, rồi cá nhân xuất sắc của cả huyện, em được bầu làm anh hùng lao động. Anh nghĩ xem 20 tuổi được bầu làm anh hùng lao động, đại diện cả tỉnh về Hà Nội dự lễ quốc khánh ngồi khán đài xem diễn binh cùng với những đồng chí cao cấp trong đảng và chính phủ. Ba em rất hãnh diện vì em, suốt đời ông chỉ mong một lần ngồi trên khán đài mà không được. Em ngồi khán đài, nên đã nhìn thấy các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn Tiến Dũng, ông nào cũng mập tròn, nước da láng bóng. Các ông ấy đã làm cách mạng và lãnh đạo cách mạng, công việc nặng nhọc nên cần được bồi dưỡng, nên dân có gầy ốm thì các ông ấy vẫn mập như voi. Họ làm lãnh tụ cách mạng là biết cách thúc đẩy toàn dân làm cách mạng, còn họ thì hưởng, gia đình họ hưởng; họ quyết tâm giải phóng miền Nam, nhưng ra chiến trường là người khác chết, con em người khác chết. Các lãnh tụ không ai có con phải vào chiến trường B cả, con của họ đi học ngoại quốc. Họ cấu kết nhau thành một tầng lớp thủ lợi riêng tư sống trên xương máu của nhân dân, cấu kết với nhau trong nước chưa đủ để củng cố địa vị, họ còn cấu kết với nước ngoài.
Ông Lê Duẩn đem gả con gái cho cháu trai của Breznev bên Liên Sô không phải để giữ chắc cái ghế Tổng Bí Thư là gì.
Nói tóm lại, phải biết sống, không có quyền hành thì phải có tiền, xin lỗi anh, bao giờ chó chê cứt thì người ta mới chê tiền anh ạ.
Năm em 22 tuổi em phải vào bộ đội, các lý do cần thiết cho hợp tác xã không giữ em được miễn, nhưng lúc này em đã biết sống và có cách sống, trong những năm thân cận với chủ tịch hợp tác xã em đã học hỏi được nhiều mánh mung, bớt xén phân bón, thuốc trừ sâu, cân đo gian lận, em cũng để dành được ít tiền, gia đình em cũng tạm no; vào lính với lý lịch bố làm công an, và thành phần ba đời bần nông cùng với 500 đồng bạc để dành được làm của hối lộ, em được đi học tài xế. Phải nhắc anh mới hiểu cái quan trọng của nghề lái xe ở miền Bắc; trong khi hầu hết mọi người đi bộ hoặc đi xe đạp, mà mình ngồi trên xe hơi thì anh biết sẽ đủ mùi sung sướng, dù là xe hơi nhà nước, xe hơi quân đội anh cũng được sung sướng trọn vẹn. Lính xế không trực tiếp chiến đấu, nếu anh biết sống thì anh chỉ chạy tuyến tiếp vận hàng hóa, dĩ nhiên cũng có sợ bom Mỹ nhưng mọi người đều đương đầu với hiểm nguy, thì mình không ngại gì khi mình vẫn ưu tiên. Anh biết không, lính xế là ước mơ của bao nhiêu thanh niên miền Bắc; làm vợ lính xế là ước mơ của bao nhiêu cô gái. Thời buổi chiến tranh, chết chóc đói khổ, anh biết chỉ có lính xế mới có tiền vào các quán hàng chui có đầy đủ phẩm chất, phở có người lái, thịt gà, thịt lợn chui đủ thứ, chứ không phải chỉ vào cửa hàng quốc doanh ăn phở không có thịt. Sau mười tám tháng học ở trường dạy lái xe Đồng Đăng thì em tốt nghiệp. Anh thắc mắc tại sao học tài xế phải 18 tháng, đó cũng là kinh nghiệm sống để biết thêm cách sống. Nếu ban giám hiệu trường dạy lái xe không soạn một chương trình huấn luyện lâu dài thì họ đâu có là đơn vị quan trọng, họ đâu có chỗ đứng trong bộ máy nhà nước. Anh biết là giám hiệu trường quân xa mang quân hàm Thiếu Tướng. Nếu cứ vài ba tuần hay nửa tháng là học xong bằng lái xe thì nghề lính xế đâu có quí và cái trường đào tạo lính xế đâu có quan trọng. Chỉ có việc ngồi trên mô hình xe bằng gỗ để tập vặn tay lái và đạp chân ga là đã ba tháng học.
Ra trường, đơn vị đầu tiên của em phụ trách chuyển quân từ Thanh Hóa vào đến Vinh, công tác này thú lắm, nhất là lúc đó em còn trẻ, các em gái thanh niên xung phong liên khu 4 mê lính xế miền Bắc. Em nào cũng thước năm bằng nhau như cưa và cái đít bằng cái thúng; cứ biếu một ký muối là anh tha hồ, đơn vị đóng quân gần nhau, tối mò qua, ôm đứa này thì đứa khác quay mặt qua hướng kia, giả đò ngủ. Trên đường trở về đơn vị em làm ăn bằng cách chở người quá giang. Nếu không lấy tiền thì tụi em được đền ơn bằng tình; nói tóm lại tha hồ, sợ không có sức mà chơi. Em đâu có bám vào đơn vị chuyển quân mà sống được, dù sống vui như em đã kể; vấn đề là phải làm ra tiền, có tiền anh sẽ mua được nhiều thứ, kể cả sinh mạng của anh. Em đã tốn cả 1000 đồng để đổi từ đơn vị chuyển quân sang đơn vị chuyển vận hàng hóa. Lộ trình từ Đồng Đăng về Hà Nội, chở hàng viện trợ của Trung Quốc qua ngã Lạng Sơn – chuyên chở đủ thứ, từ gạo, mì chính (bột ngọt), thuốc tây. Anh biết lần đầu tiên đem về nhà nửa bao gạo mẹ em sung sướng thế nào không? Suốt đời chưa bao giờ mẹ em có được một lúc gần 50kg gạo. Đó là em muốn mẹ em được hưởng cái cảm giác sung sướng vì no đủ, cho bõ những lúc đói hai ba ngày không có hột cơm, chỉ ăn cháo nấu với cám và dây khoai như thức ăn của lợn. Đem gạo về như vậy rất phiền, phải giấu giếm, nếu không thì lộ chuyện làm ăn, dù gia đình em là công an được làng xã nể vì và em cũng là người quen biết. Từ đó về sau em đem hàng đi bán lấy tiền.
Hàng ăn cắp thì bán cách nào cũng được, đứa nào cũng là cơ sở cách mạng, đứa nào cũng miệng nói cách mạng, nhưng móc nối được lính xế tuôn hàng cho bán, thì đứa nào cũng bí mật, giấu kín như mèo giấu cứt, vì đứa nào cũng hiểu rất rõ cái ăn nó quan trọng hơn đảng. Nếu nghe theo lời đảng “giữ sự trong sáng như con ngươi của mắt” thì có nước ăn cứt – nói thì cứ nói, mà làm thì cứ làm. Khi chưa có cơ hội làm thì cứ đem kinh điển của đảng ra tụng mỗi ngày, buộc tội đứa khác cũng dựa vào kinh điển, thúc đẩy đứa khác cũng dựa vào kinh điển – nhưng cơ hội đến thì đứa nào cũng phải biết ôm lấy cái lợi. Em chở hàng, thường thì đến trạm nghỉ Bắc Ninh chúng em bán đồ ăn cắp. Đứa nào cũng làm ăn, từ trên xuống dưới. Cứ lấy bớt mỗi thùng, mỗi bao một ít rồi về thằng thủ kho nó chịu, cứ theo dây chuyền như vậy, có ai thiệt hại đâu ngoài mấy thằng lính ngoài chiến trường, mà lính thì sống nay chết mai, bữa đói bữa no có khi giặc tấn công cả hai ba ngày không ăn là chuyện thường; nếu không có đứa rảnh rang khơi lên thì có ai mà biết – có ai cần quan tâm khi cái chết nó quan trọng hơn, mà có đứa nào chắc chắn được là ngày mai mình không bị bom dập nát.
Em cứ đưa hàng cho những bí thư xã nó bán là ăn chắc, nó vừa bảo vệ việc làm ăn của nó vừa bảo vệ cho mình, lâu lâu nó lại làm kiến nghị của nhân dân xã lên đơn vị trưởng nói tốt cho mình, đơn vị quân đội khi làm công tác chuyển vận đã được dân chúng mến mộ, nó muốn viết gì thì viết nấy; quí hồ vẹn cả mọi bề, làm ăn tốt đẹp cả. Nơi nào đơn vị dừng lâu em cũng có đầu mối làm ăn và có gái. Anh biết thằng cha bí thư xã Thanh Liêm ở Bắc Ninh có hai đứa con gái mới lớn em đều ngủ cả mà hắn không dám nói vì sợ mất mối mì chính của em đưa bán. Trên đường từ Hải Phòng về thì tại Hải Hưng em có một trạm do hai chị em một nữ bí thư xã lo việc bán hàng cho em. Cả hai chị em đều chưa có chồng và đều coi em như trứng mỏng, em muốn ngủ với đứa nào cũng được.
Em hay nói về đàn bà, vì mình là thanh niên độc thân đâu có gì thú bằng chuyện đàn bà, cách mạng người ta giải phóng phụ nữ, bảo vệ phẩm giá nữ giới, nhưng đàn bà miền Bắc lại rẻ như bèo, phần thì thanh niên phải ra chiến trường, trai thiếu gái thừa, phần thì phụ nữ ra ngoài xã hội chung chạ đủ hạng người – cứ đẩy đàn ông ra chiến trường thì bọn đảng viên cơ sở ở nhà mặc tình hưởng thụ vợ con của người khác. Anh nghĩ, làm sao giữ được phẩm hạnh khi xa chồng lâu ngày rồi phải đi làm nghĩa vụ lao động hàng hai ba tháng chung chạ nam nữ lẫn lộn với nhau; làm sao giữ trinh tiết khi chồng đi vắng mà thằng bí thư xã cứ đến nay giúp cái này, mai giúp cái khác. Làm sao mà giữ chữ trinh trong khi con gái đến tuổi 18 bị lùa đi thanh niên xung phong hàng 2,3 năm trời xa nhà, mà nhà nước chỉ chích cho mỗi 3 tháng một lần một mũi thuốc ngừa thai. Hoặc khi giáp hạt phải quảy gánh lên tận Hà Giang để mua củ sắn về bán lại hay để ăn trong gia đình. Lính xế tụi em thì có tất cả, trên đường công tác, chạy đến ga xe lửa chọn một vài cô xinh đẹp cho quá giang là có bạn gái, họ phải tiện tặn từ đồng, từ chục bạc để mua sắn thì họ phải chiều, mà có mất mát gì đâu phải không anh? Rửa đi thì nó lại sạch như mới. Khi quân vào giải phóng Đà Nẵng em đã có mặt tại đó, em vẫn là lính xế, sau khi chiếm xong Huế thì đoàn quân bị sựng lại ở Hải Vân đến hai ngày, lúc đầu mới tiến qua sông Thạch Hãn và vào Huế thì còn sợ bị phản công, nhưng thấy chiếm xong hai tỉnh mà không động tĩnh gì, tụi em mới an tâm, nên đứa nào cũng náo nức tranh thủ cho được đi những chuyến đầu tiên vào Đà Nẵng. Vào đến thành phố, các em được nghiêm lệnh không động tới tái sản của dân dù là cây kim sợi chỉ, nhưng tài sản của dân còn làm chủ chứ có nhiều của cải vứt rây rải trên đường không ai thừa nhận, có dịp nào mình xin cũng được cả khối. Tụi em lại là lính xế, xe còn chạy ra, chạy vào để tiếp tục đưa quân vào, nên mỗi chuyến xe em cũng có được “chiến lợi phẩm” như đài (radio), máy hát, thuốc tây, đủ loại các vật mà em bán ngay tại Vinh để lấy tiền. Vinh là đầu cầu chuyển quân lúc đó.
Sau khi đóng ở Đà Nẵng hai tháng thì em xin phép về nhà, em có được một xe môtô hiệu Honda, máy băng cassette, đài, cái nào cũng có hóa đơn hay giấy chứng nhận của đồng bào cho do các phường xã cấp – sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa phải có giấy tờ cẩn thận phòng thân, e sợ có đứa xấu mồm nó ganh ghét tố cáo. Sẵn có tiền em mua một chuyến hàng về bán. Anh biết em mua gì không? Em mua một bao bố thứ bong bóng thổi cho trẻ em chơi, thứ này không ai để ý mà cũng không sợ bị vi phạm gì, bong bóng đủ màu ngoài Bắc hiếm lắm. Thuở nhỏ em chơi bằng bong bóng lợn, mỗi khi làng xã có giỗ tết giết lợn, mình lanh lợi phụ giúp mới xin được cái bong bóng đem phơi cho gần khô rồi thổi lên làm bóng đá chơi. Sau này trẻ con chơi bong bóng bằng cao su kế hoạch hóa – Anh không hiểu bao cao su kế hoạch hóa là gì à? Đó là bao ngừa chửa đẻ, ngoài Bắc chủ trương kế hoạch hóa gia đình và ba khoan, trong đó có khoan đẻ cho những cặp vợ chồng mới cưới, và người ta còn phát bao cho những thanh niên xung phong, để bổ túc cho liều thuốc ngừa thai chích cho nữ thanh niên xung phong có hiệu quả ba tháng. Bao cao su bán rẻ cho những gia đình kế hoạch hóa một hào một cái, nhưng người ta lại ít muốn kế hoạch hóa và ham lợi, có người nghĩ ra cách mua góp bao cao su hai hào rưỡi một cái về thổi lên làm bong bóng bán cho trẻ con chơi với giá 5 hào. Bong bóng đó không có màu. Em đem bong bóng miền Nam về nhiều màu, chỉ mấy ngày đã bán nhẵn, một bao bố em lời được 10 ngàn đồng. Số tiền quá lớn chưa bao giờ gia đình em dám mơ ước tới.
Về xóm làng, bà con đến nhà bu đông đặc, cái gì cũng mới lạ, cũng sờ vào, cả ba em, cứ thắc mắc làm sao em có nhiều tài sản thế. Em khui ra 5 hộp sữa pha vào một cái thau lớn mời mọi người nhấm một tí, có người suốt đời chưa biết uống sữa bò là gì, chỉ nghe nói là miền Nam theo Mỹ, ăn bơ sữa của Mỹ nên ai nấy tò mò. Có người hớp vào một tí đã la lên là sao sữa hôi mùi xà phòng mà tụi Mỹ nó thích. Bơ thì em cũng nghe nói nhưng lúc đó chưa biết là gì nên không đem về cho bà con biết. Ngày nào nhà em cũng đầy khách, máy cassette em mở cải lương cho họ nghe. Ba em cứ ngồi vuốt ve cái mô tô và cái máy cassette, khi em nói máy thâu được cả lời nói, không ai tin, em nhấn nút thâu bảo ba em nói vào, đến lúc mở ra nghe tiếng của ông, ông ngồi ngẩn tò te, tròn mắt ngạc nhiên lắm. Tội nghiệp ba em suốt đời lúc nào cũng Bôn, lý thuyết Bolchevik, đấu tranh với kẻ thù giai cấp ông nói nằm lòng mười lần giống như một. Nhưng suốt đời không đủ no và gia đình mẹ con em thì đói dài dài. Ám ảnh vì món tài sản em mang về quá nhiều ông cứ theo hỏi em là em đã được lên cấp tá chưa mà chiến lợi phẩm lại nhiều thế. Em nói em chỉ là thượng sĩ tài xế ông không tin, thực ra ông quá choáng ngợp vào đồ vật thôi chứ ông không thể nào tin là em được lên tới cấp tá trong quân đội, mà cho dù cấp tá ở miền Bắc cũng không có được một lúc nhiều hàng hóa như vậy. Ông như người mất hồn, cứ hỏi đồ vật ở đâu em có, em bảo đồng bào miền Nam cho, ông không thể nào hiểu nổi người ta có thể bỏ một số tài sản như vậy để mà chạy. Em phải nói là em là cấp nhỏ nhờ có xe và lanh lợi cũng tìm được tài sản đó, còn các ông lớn có quyền, họ tiếp thu cơ quan tha hồ mà lấy, cứ một phần cho nhà nước, mười phần cho cá nhân, xe con tịch thu được của người bỏ đi ngày nào cũng mang chở chiến lợi phẩm ra Bắc.
Tội nghiệp mẹ và vợ em, em mua về cho thật nhiều áo quần, những cái áo len dày và ấm nhưng không dám mặc, có mặc thì cũng mặc vào bên trong rồi mặc cái áo trấn thủ rách mướp ra ngoài. Em giục nhà ăn, mặc; em ra phố mua cả rổ cá, bao nhiêu thịt người ta bán chui em mua về hết cho gia đình ăn, mẹ em cứ hoảng lên, đi ra đi vào, bối rối không biết phải làm cái gì; rồi lại sợ xóm giềng biết được. Em bảo gia đình có sức cứ ăn cho sướng, cho bõ bao nhiêu ngày đói khổ, nhưng nhà em thì dè dặt bảo bây giờ có em, có cha em người ta cũng nể nang, rồi khi chúng em đi hết rồi, địa phương lại lôi thôi.
Em ở nhà dự đám cưới của đứa em gái, hai đứa nó là thanh niên xung phong đi công tác ở Hà Giang một năm nghĩa vụ lao động rồi thành vợ chồng vì con nhỏ bể kế hoạch có chửa, mà mẹ em không cho trục thai. Thanh niên nam nữ chung đụng với nhau hàng ngày, đứa nào lười xin thuốc hay dùng bao cao su kế hoạch mà dính chấu thì phải cưới nhau. Sau khi tập thể và đoàn thanh niên kiểm điểm phê bình, đưa ra trước tiểu đoàn đấu tranh rút kinh nghiệm, xong thì cho phép làm đám cưới. Về đăng ký cưới tại địa phương sẽ được phiếu mua hai gói trà, 6 gói thuốc lá và hai bao kẹo để làm bữa tiệc đãi bạn bè và địa phương.
Sẵn có tiền, và cũng muốn có một đám cưới lớn cho nở mày nở mặt với bà con; em bàn với mẹ làm tiệc mặn, tiệc mặn thì có thể mua hai con chó để làm tiệc, chó thì được hạ thịt tự do, vì chó không vào quy hoạch nhà nước. Nhưng em muốn làm một con lợn cho hách; lợn thì làm gì có mà mua được cả con. Cuối cùng em phải đến thương lượng với tổ chăn nuôi của hợp tác xã làng bên kia sông, chủ nhiệm đồng ý bán cho em con lợn với cách là hắn dàn xếp cho em và thằng em rể vào ăn trộm, tiền đưa xong, ban đêm dẫn vào chuồng lợn, tụi em đào một cái hố con, xong nhấn đầu con lợn xuống đâm cổ tại chỗ – tức là phải bỏ cả tiết lợn – rồi mang xác con lợn xuống ghe làm thịt ngay giữa sông.
Đến ngày đãi khách, em phải đứng giữ vò thịt, chờ lịnh mẹ, khách nào bà bảo chó, thì thằng em rể cắt thịt chó, khách nào bà bảo lợn thì em cắt thịt lợn. Bà con người nào thân thiết mà kín miệng mới được ăn thịt lợn, còn không thì ăn thịt chó.
Em kể chuyện ở Đà Nẵng người ta bán thịt bò thui nguyên cả đùi không ai tin cứ bảo em đi xa về nói dóc. Vợ em nó như con mán, em nói gì nó cũng nói “anh nói thế, chứ ăn thịt bò tù cho đấy”, nó quen luật pháp miền Bắc làm thịt bò ăn là ở tù nên chuyện nó không thấy nói thế nào nó cũng không tin.
Em muốn đưa nó vào Nam sống nó lại không muốn đi, nó bảo nó không thể xa làng mạc được. Tội nghiệp nó, làm nông vất vả, sáng sớm chưa hừng đông đã ra đồng hợp tác, hết cấy, làm cỏ, thì đập bèo hoa dâu, mùa lạnh lội nước teo cả người mà nó cứ dại không chịu đi theo em.
Em là một đảng viên Cộng sản, em vào đảng không khó vì bố là đảng viên, lý lịch gia đình bần nông, qua giai đoạn phấn đấu khi còn là đối tượng đảng. Ở nông thôn, thì chịu khó thức khuya dậy sớm trời lạnh ra đồng đập bèo hoa dâu vài mùa, nhưng quan trọng là công việc mình làm phải được giới thiệu, nhiều khi làm ít mà được người giới thiệu tô vẽ hơn lên thì càng tốt. Chỉ ở ngoài tác chiến thì khổ, nhiều đứa cứ tin vào lý tưởng, nghe theo lời động viên của cơ sở thúc đẩy, xung phong chấp nhận hy sinh để xứng đáng được kết nạp đảng, nhiều đứa chết trước khi được vào đảng, đến lúc đó thì cơ sở sẽ làm lễ truy điệu, đọc lời thương tiếc để động viên sự hy sinh của đứa khác. Những đứa đã vào đảng trước rồi thì nó chỉ thúc đẩy đứa sắp vào đảng hy sinh còn nó thì không.
Anh biết từ bộ đội chuyển qua công an và để được làm ngay tại Saigon này em phải mất bao nhiêu không? Mười ngàn, đó là giá còn sớm, lúc này chưa chắc mua được – một là tiền hai là thế, không có tiền để mua thì phải vào cho đúng phe nhóm mới được sắp xếp cho làm tại Saigon này, vì Saigon là nơi rất quan trọng mà hiện nay cánh nào cũng muốn bành trướng thế lực và nắm lấy những địa vị then chốt. Ngành công an là công cụ để bảo vệ chế độ, công an có nhiều quyền, nên công an cũng là nơi làm ra nhiều tiền, đó là logic. Em bị chuyến này vì ham cái nhà ở đường Nguyễn Tri Phương vừa tốt vừa rẻ, em muốn mua để đưa mẹ, vợ và mấy đứa em vào sống trong này.
Tội lỗi em không lo, em còn tiền rồi sẽ lo xong, vả lại việc làm ăn cũng có liên hệ nhiều người, điều quan trọng là em sẽ không nhận tội gì cả; trong xã hội Cộng sản này, tốt nhất là đừng để bị bắt, nếu lỡ có bị bắt thì cố gắng giữ lời khai cho hợp lý, đừng nhận tội. Nó nói là tự giác nhận tội sẽ được khoan hồng, nhưng tự giác là tự sát. Nhận tội thì không có đứa nào có quyền khoan hồng, người ta chỉ khoan hồng cho những người không phạm tội, tức là tỏ ra không có tội theo luật pháp qui định. Không nhận tội, khéo khai cho hợp lý, rồi bên ngoài có tiền chạy cho đúng thì gỡ được. Em làm ở ngành công an em hiểu; vụ án nào cũng phải được giải quyết, vì giải quyết xong một vụ án cũng là thành tích của đứa nó phụ trách, vậy nó phải làm cho mình nhận tội bằng cách tra khảo, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt, cách nào cũng được để can phạm nhận tội, hoặc ngược lại mình phải làm cho nó tin là mình vô tội cũng bằng mọi cách, trước hết không nhận tội, khéo khai cho hợp lý để nó có thể kết luận khả tín lên thượng cấp và tốt hết là mua chuộc. Thằng công an làm nghề bắt tội phạm cũng phải có thành tích, ngoài chuyện rình mò tìm ra người phạm pháp, nhiều khi nó phải dựng chuyện để bắt, dụ dỗ người ta phạm tội để bắt. Chế độ cần thành tích nên mọi ngành phải lập thành tích mà thành tích của công an là bắt người và xử lý các vụ án.
Tôi ngạc nhiên về trường hợp của Lâm, thế hệ thanh niên Cộng sản thứ ba mà Hồ Chí Minh kỳ vọng đào tạo nên con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thế hệ thứ nhất là những người Cộng sản đi làm cách mạng năm 1930, nay còn rất ít và đang ở địa vị chóp bu; thế hệ thứ hai tham gia kháng chiến năm 1945, dù đã trở thành Cộng sản nhưng đa số gốc gác vẫn là tiểu tư sản, hay nông dân là thành phần ít có cách mạng tính hơn hết; tiểu tư sản và nông dân là thành phần hay suy nghĩ và làm việc một cách tùy tiện không có tinh thần kỷ luật. Thế hệ thứ ba là những thanh niên sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, được giáo dục tinh thần xã hội chủ nghĩa từ nhỏ, đảng tạo điều kiện cho họ thoát ly khỏi gia đình, từ bỏ tư hữu để hiến thân cuộc đời cho đảng và cho tập thể.
Nhưng trường hợp của Lâm là kết quả ngược lại điều mong ước của đảng và “bác”. Người thanh niên Cộng sản này chỉ nhìn thấy thực tế đời sống đói khổ và bỏ mặc những điều đảng và bác dạy dỗ để tự tìm lấy cho mình một lối sống để tồn tại.
Lý thuyết Cộng sản đã không tồn tại và phát triển được ở các nước giàu có, và chính những nước mà Cộng sản đã vô sản hóa người dân như miền Bắc Việt Nam cũng không phát triển được. Nó chỉ tồn tại ở bên ngoài bởi tổ chức và bạo lực áp bức, còn bên trong nó bị chính con người nó đào tạo ra từ khước.
Trường hợp chú Bình, trường hợp Nghĩa, trường hợp Lâm, những đảng viên Cộng sản đã nói lên tất cả cái phi lý của chế độ Cộng sản, sự gượng ép của những con người nhân danh cách mạng đem nó về áp đặt lên trên đầu dân chúng, và nó đang bị từ khước. Trường hợp của Huệ Nhật, của những nông dân vùng Minh Long mà tôi đã sống chung, cũng như hầu hết những người nông dân Việt Nam trước ủng hộ kháng chiến, nay chống đối xã hội chủ nghĩa, cho thấy việc xây dựng xã hội chủ nghĩa là không cần thiết và đi ngược lại lịch sử và quyền lợi dân tộc.
Như vậy, chế độ Cộng sản không thể tồn tại lâu dài ở Việt Nam, nó không phải là bất khả thay thế hay bất khả đánh đổ như những người trí thức ở Hội Trí Thức Yêu Nước lý luận.
Nó sẽ bị đánh đổ, nhưng muốn đánh đổ một chính quyền có sức mạnh bạo lực và có tổ chức chặt chẽ là một vấn đề rất khó khăn và đòi hỏi thời gian, không phải một sớm một chiều mà làm được như nhiều người mong muốn.
Tôi nhận ra Đoàn Viết Hoạt nhờ giọng nói trầm ấm và mạnh của anh. Ở phòng xà lim số 16, anh là người thường xuyên an ủi những người mới vào, và hay kể chuyện vui mỗi chiều sau giờ điểm báo. Nghe giọng nói, tôi tưởng tượng anh là một đại hán cao, to, râu quai nón kiểu Kiều Phong. Nhưng khi gặp nhận ra thì chỉ đúng là anh có bộ râu quai nón đẹp, nhưng người tầm thước như tôi và thân thể nở nang hơn tôi chút đỉnh. Anh là Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, sau 1975 sinh viên tố cáo anh thường ngăn cản các phong trào tranh đấu, nhưng khi làm việc ở Sở Công An thì công an chỉ truy anh về tổ chức đảng Duy Dân. Đặc điểm về thủ tục bắt bớ hỏi cung và truy tố người của chế độ Cộng sản ở chỗ đó. Vì là một chính quyền vô sản chuyên chính nên chúng khẳng định mọi người ở giai cấp khác là có tội, là phản động, ngay cả danh nhân lịch sử sống cách vài trăm năm trước cũng có thể bị ghép tội phản động. Nên khi chúng bắt, tội danh được ghi chỉ là cái cớ, còn khi hỏi cung và sau đó ghép tội thì tùy tiện, truy tố tội này không đủ yếu tố thì chấp pháp tìm ra tội khác, người nào bị bắt cũng phải có tội.
Suốt thời gian tôi ở trại giam, tôi lưu ý thấy Cộng sản đặc biệt lưu tâm tìm kiếm những người thuộc đảng Duy Dân. Một phần các đảng phái chính trị khác có hoạt động công khai đã đi trình diện tập trung cải tạo hết – chỉ có đảng Duy Dân trước năm 1975 vẫn không hoạt động công khai nên không đi trình diện. Vả lại công an Cộng sản cũng thấy một số lớn tổ chức đối kháng sau ngày miền Nam sụp đổ đều có dính dáng ít nhiều đến đảng viên Duy Dân. Ngoài ra, trong vấn đề trị an, Cộng sản phải tìm ra tung tích và tiêu diệt hay vô hiệu hóa tất cả thành phần đối kháng và Cộng sản rất kỵ những hình thức bí mật mà chúng không biết. Do đó, trong quốc gia Cộng sản, có xử cả tội danh “tình nghi”, nhiều khi tội danh chống chế độ bị xử còn nhẹ hơn là tội danh “tình nghi chống chế độ” hay “tình nghi phản động”. Hoạt và số người có liên hệ đến đảng Duy Dân đã bị giữ mãi tại các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hòa hơn 12 năm không phải đi lao động cải tạo vì nhu cầu hỏi cung của chúng. Mới quen nhưng chúng tôi dễ hợp nhau, một phần vì cùng trang lứa và cùng có những ưu tư khắc khoải về xã hội và tương lai đất nước. Khác với những người tù khác thường hay bày tỏ tham vọng cá nhân quá đáng và trông chờ quá nhiều vào giả thuyết Mỹ trở lại Việt Nam để họ có cơ hội tham gia chính trị. Hoạt thường có những ý kiến và sự quan tâm sâu sắc về dân tộc Việt Nam, về tương lai xây dựng một xã hội dựa trên tính dân tộc sau khi Cộng sản sụp đổ. Anh từng đi du học và đậu bằng Ph. D., anh đã phân tích được cái ưu điểm của xã hội Mỹ và khuyết điểm của xã hội đó. Cái ưu điểm là tính tổ chức, tinh thần dân chủ, nhân bản và trình độ kỹ thuật. Sự tôn trọng vật chất và thiếu tình cảm một cách quá đáng của xã hội Mỹ được Hoạt gọi là “siêu Cộng sản”. Là nhà giáo dục, anh thấy được nền giáo dục khai phóng con người đề cao tính tự lập và độc lập, nhưng đi quá nó sẽ đưa con người ra khỏi gia đình, sự buông thả xác thịt và tôn thờ cảm giác đã làm con người xuống hàng thú vật, hôn nhân không từ động lực tình yêu mà từ sự hòa hợp xác thịt và nhu cầu vật chất. Anh nghĩ đến một giai đoạn khủng hoảng về sự thiếu giá trị tinh thần của xã hội Mỹ nói riêng và Tây phương nói chung, về sau này Việt Nam không thể bắt chước hoàn toàn mô thức phát triển của họ sau khi đã đánh đổ chế độ Cộng sản. Anh cũng trình bày những quan niệm về dân tộc nhân bản và kinh tế bình sản là những chủ điểm của thuyết Duy Dân cho tôi biết.
Đành rằng Hoạt chưa nói lên được phương thức tổ chức đánh đổ chế độ Cộng sản đương quyền – anh chỉ nói lên sự cần thiết phải có tổ chức đối kháng dựa vào sức mạnh của toàn dân với tinh thần dân tộc nhân bản là chính, không thể trông chờ hoàn toàn vào Mỹ sẽ trở lại lật đổ chế độ Cộng sản.
Hoạt và tôi đã nhận thấy một số khiếm khuyết từ các anh em tù trong các lực lượng phục quốc. Anh em đa số là sinh viên học sinh, một số có cha anh đi cải tạo, căm thù, uất ức và nhạy bén nhận định được chế độ Cộng sản là phản lại quyền lợi dân tộc. Từ đó, các em rất tích cực tham gia các mặt trận phục quốc khi được các bạn bè móc nối. Tổ chức thật cũng có, mà tổ chức giả do Sở Công An Thành Phố của Mai Chí Thọ đưa ra để bắt người đối kháng cũng có.
Các lãnh tụ tổ chức đối kháng thường thì chưa có hoạt động cụ thể kể cả việc truyền bá chính cương và sách lược đấu tranh, chưa có tài liệu học tập thì đã bị phá vỡ. Đa số các em bị bắt đều chưa hiểu ít nhiều về lập trường chống Cộng sản của mình ngoài sự căm thù – các em chưa được lý luận một cách tương đối lý do tại sao mình chống Cộng và chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước. Tôi đề nghị cùng Hoạt giúp các em một ít hiểu biết căn bản về những điều cần thiết đó, nếu em nào thấy cần. Chúng tôi phân công: Hoạt đem luận cứ chính trị của triết học Duy Dân, còn tôi cố chứng minh những luận cứ sai lầm của thuyết Cộng sản, sự lạm dụng lịch sử để nhập cảng chiến tranh ý thức hệ che dấu dưới chiêu bài giải phóng dân tộc.
Dân tộc Việt Nam tồn tại được nhờ vào ý thức độc lập.
Hơn một ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa không bị đồng hóa. Gần một trăm năm Pháp thuộc; thời gian nào cũng có những cuộc khởi nghĩa để đánh ngoại xâm. Sau Đệ Nhị Thế Chiến là thời cơ thuận tiện để các nước bị đô hộ giành lại độc lập. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã nắm được cơ hội lịch sử đó, thêm thủ đoạn lường gạt, bắt tay với thực dân Pháp loại bỏ tất cả những thành phần Quốc gia mà Cộng sản xem là nội thù cần phải triệt tiêu trước.
Lénine đã viết rất rõ ràng về sách lược của cách mạng: để lật đổ Sa Hoàng, Lénine vận động cuộc Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản trước để đoàn kết tất cả khuynh hướng chính trị đối lập với triều đình Sa Hoàng chuyên chế, phù hợp với nguyện vọng đòi hỏi dân chủ của toàn dân Nga. Sau khi Nga Hoàng bị tiêu diệt, đảng Bolchevik là lực lượng có tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ nhất trong phong trào lần lượt loại trừ các tổ chức chính trị khác để độc quyền cai trị nước Nga, sát nhập các thuộc địa cũ của đế quốc Nga để thành lập Liên Bang Sô Viết.
Đối với các nước thuộc địa, cuộc Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản được đổi thành Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc. Lénine định nghĩa thế nào là đồng minh giai đoạn, thế nào là bạn, thế nào là thù, kẻ thù nào là kẻ thù chính và kẻ nào là kẻ nội thù. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ làm theo đúng sách vở kinh điển chỉ dẫn.
Để giải giới quân đội Nhật trên toàn Đông Dương, Đồng Minh đã quyết định giao cho Trung Hoa Quốc Gia và Anh Quốc phụ trách tiếp thu hai miền Bắc và Nam vĩ tuyến 16. Miền Nam, Anh Quốc đã đem quân Pháp vào với âm mưu tái chiếm thuộc địa. Miền Bắc, những tổ chức Cách Mạng Quốc Gia dựa vào quân đội Trung Hoa để nắm chính quyền. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã nhận định đúng kẻ thù nào cần tiêu diệt trước. Pháp là kẻ thù chung của toàn dân, cần thời gian lâu dài; các tổ chức chính trị quốc gia được xem như kẻ nội thù cần tiêu diệt ngay để độc quyền lãnh đạo cách mạng giải phóng. Hồ Chí Minh đã quyết định nhanh chóng và dứt khoát. Ở miền Bắc dùng tiền của nhân dân đóng góp trong chiến dịch Tuần Lễ Vàng để mua chuộc hối lộ các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Dân Đảng để họ bỏ rơi các lãnh đạo chính trị Quốc gia, mặc tình để cho đảng Cộng Sản Việt Nam tiêu diệt. Đối với Pháp, Hồ Chí Minh đã hạ mình làm một hành động đê tiện, ban đêm đến nhà của Bộ Trưởng thuộc địa Pháp Marius Moutet để xin ký Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhận cho Pháp trở lại Việt Nam. Marius Moutet ký hiệp định với Hồ Chí Minh ngay tại nhà y khi mặc áo ngủ. Về đến Hà Nội, Hồ Chí Minh còn thỏa mãn đòi hỏi của Tướng Le Clerc, đón tiếp y tại Hà Nội. Le Clerc muốn kiều dân Pháp tại Hà Nội và chính quyền Cộng sản phải treo cờ Pháp đón y, Hồ Chí Minh cũng bằng lòng. Nhưng đối với dân Việt Nam, nhất là dân thủ đô Hà Nội thì phải giải thích làm sao khi treo cờ tam tài sau khi đã tuyên bố độc lập? Ngày sinh nhật Hồ Chí Minh 19-5 khai sinh trong dịp đó. Ngày 19-5 Le Clerc đến Hà Nội, dân Hà Nội được lịnh treo cờ đỏ sao vàng mừng sinh nhật Hồ Chủ Tịch, trong rừng cờ đỏ sao vàng, kiều dân Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng treo cờ tam tài trên đoạn đường Cao Ủy Pháp đi qua – ai mà biết được. Một mưu kế vặt giải quyết được mọi đòi hỏi của tình thế. Cứu cánh biện minh cho phương tiện, phương tiện dù tàn ác, đê hèn đến đâu miễn sao đạt được mục đích. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã đạt được mục đích nhất thời, rảnh tay với Pháp, tiêu diệt đối lập, mua chuộc quân đội Trung Hoa Quốc Gia rút về nước. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản trở thành độc tôn hiệu triệu toàn dân chống Pháp.
Đánh ngoại xâm giành độc lập dân tộc, chính nghĩa sáng ngời – toàn dân Việt Nam nô nức theo “bác Hồ” đi kháng chiến, không ai nghĩ đến cái tổ chức cốt lõi của bác Hồ là đảng viên Cộng Sản Quốc Tế. Bác và đảng đang thi hành nhiệm vụ của đảng Cộng Sản Quốc Tế do Liên Sô lãnh đạo trong âm mưu xích hóa toàn cầu.
Nhiều người yêu nước theo kháng chiến, đem hết khả năng tưởng phục vụ dân tộc, trong khi đó, đảng Cộng sản lần hồi kiện toàn tổ chức, đối với những thành phần tư sản, trí thức tiểu tư sản không thể kết nạp đảng hoặc không chấp nhận đảng, không đầu hàng giai cấp thì hoặc bị tiêu diệt hoặc bị loại dần ra khỏi tổ chức. Chiến tranh Pháp-Việt đã diễn ra và tạm thời phân định chiến tuyến rõ rệt, quân đội thực dân Pháp chiếm các thành thị, quân kháng chiến chiếm các vùng rừng núi và nông thôn. Người quốc gia chân chính không có chỗ đứng, không thể tiếp tục chiến đấu trong hàng ngũ Cộng sản, bỏ về thành thì bị xem như một hình thức bỏ cuộc, nếu hoạt động bên cạnh người Pháp thì bị xem như là Việt gian. Người quốc gia ngậm đắng nuốt cay, không đảm nhiệm được vai trò lịch sử dân tộc. Trong khi đó, vì nhu cầu cai trị và âm mưu tái chiếm thuộc địa, thực dân Pháp xây dựng nên đám Việt gian tay chân trong chính quyền bù nhìn Bảo Đại, những tên đại Việt gian như Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Nguyễn Văn Hinh và một số Việt gian ở cơ sở khác dựa vào thế lực quan thầy Pháp để tiếp tục sách nhiễu nhân dân.
Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền của người Quốc gia đầu tiên độc lập với thực dân Pháp. Mặc dầu cũng được Hoa Kỳ ủng hộ thành lập nên nhưng sự tương quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa không phải là tương quan đế quốc và thuộc địa. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, không phải chỉ miền Nam mới có tương quan với Hoa Kỳ mà nhiều nước nằm trong trường hợp đó. Phi Luật Tân, Đại Hàn, Nhật Bản và ngay cả Tây Âu cũng có tương quan chặt chẽ với Hoa Kỳ, và trong mối tương quan đó phải chấp nhận một số những ràng buộc. Phía Cộng sản phê phán mối tương quan đó, gọi Hoa Kỳ là đế quốc. Nhưng ngày nay lịch sử thế giới đã chứng minh rằng Tây Âu, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Đại Hàn đều là những quốc gia độc lập và tiến bộ. Là chính quyền của người Quốc gia, nhưng không thực sự do chính tổ chức mình lập nên mà phải nhờ vào bàn tay của người Mỹ, đó là nhược điểm đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa. Vì không có đủ cán bộ, phải sử dụng quá nhiều những tay chân của thực dân Pháp trong chính quyền và quân đội nên đối với quần chúng nhân dân, chính quyền không có bộ mặt mới mẻ, dễ bị lẫn lộn. Dân Việt Nam có tính bài ngoại cao nên dễ nghi ngờ và lầm lẫn.
Khuyết điểm nữa là thay vì nắm cơ hội đoàn kết những người Quốc gia yêu nước chống Cộng, Đệ Nhất Cộng Hòa cũng học bài học độc tài độc tôn của Cộng sản, tiêu diệt các thành phần Quốc gia để độc quyền chống Cộng sản, nên tự mình biến thành một chính quyền cô lập, một lúc phải chống hai kẻ thù, kẻ thù chính là Cộng sản và kẻ thù bên trong là tổ chức chính trị và tôn giáo bị loại bỏ. Về phương diện tư tưởng, Đệ Nhất Cộng Hòa vì muốn xây dựng và truyền bá lý thuyết Cần Lao Nhân Vị, tư tưởng Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16 qua thời gian lịch sử đã trở thành một luồng tư tưởng và một thành phần văn hóa của dân tộc, cùng với ba tư tưởng chính Nho, Thích, Lão đã ăn sâu vào nếp sống và lề lối suy nghĩ của người Việt Nam.
Tính công bằng và bác ái trong tư tưởng Thiên Chúa Giáo không ngược lại tâm hồn và nếp suy tưởng của người Việt. Ngày nay văn hóa và tư tưởng của người Việt Nam là kết quả của những sự hội nhập hài hòa của bốn nguồn tư tưởng Nho, Thích, Lão và Ki Tô. Do đó, nếu một thế lực nào và một cá nhân nào chủ trương độc tôn tư tưởng hoặc xây dựng một quốc gia đều không phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử dân tộc. Một khuyết điểm trầm trọng của chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa là có nhiều người chủ trương độc tôn tư tưởng, biến Thiên Chúa Giáo thành quốc giáo trong khi tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ là một thành phần trong cộng đồng dân tộc. Độc tài chính trị và độc tôn tư tưởng không phù hợp với thời đại ngày hôm nay.
Những khuyết điểm của miền Nam nói trên bị Cộng sản lợi dụng tuyên truyền, đào sâu chia rẽ trong dân chúng, để cô lập chính quyền Quốc gia còn non trẻ. Cộng sản tuyên truyền đồng hóa sự viện trợ Mỹ với hình ảnh thực dân Pháp, đồng hóa chính quyền Quốc gia với chính quyền Việt gian tay sai, đồng hóa quân đội Việt Nam Cộng Hòa với quân đội thuộc địa. Từ đó, họ dần dần nắm ưu thế. Đến khi người Mỹ đưa quân ào ạt vào Việt Nam, tuy tạo cho miền Nam một sức mạnh về quân sự nhưng lại trở thành thế yếu về chính trị. Bắc Việt nắm được thời cơ tuyên truyền Mỹ xâm lăng, họ đạt được thắng lợi về chính trị, kích động dân Việt Nam hai miền Nam Bắc chống ngoại xâm và trong mặt trận ngoại giao họ hoàn toàn nắm ưu thế. Họ còn dùng tuyên truyền đánh thẳng vào lương tâm của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới, cuối cùng họ đã thắng về quân sự.
Tại miền Nam, qua thời gian và qua chiến đấu đã hình thành được một lớp người có khả năng, yêu nước, chống Cộng sản, nhưng lớp người này chưa thực sự lãnh đạo, đa số những người lãnh đạo và kẻ chỉ huy cao cấp của chính quyền Đệ Nhị Cộng Hòa vẫn thoát ra từ thành phần Việt gian, tay sai Pháp cũ hoặc một số trí thức vong bản, làm việc chỉ biết tìm lợi ích cho bản thân cá nhân do nếp sống văn hóa chuộng vật chất, thái độ phi chính trị, kém ý thức trách nhiệm đối với xã hội mà họ hấp thụ được do thời gian du học ở ngoại quốc, họ từng sống trong một xã hội dân chủ trưởng thành trong đó cá nhân chỉ biết luật pháp và hạnh phúc cá nhân. Một nếp sống, một lối suy tưởng không phù hợp với văn hóa Việt Nam. Con người Việt Nam coi trọng tình cảm giữa con người với nhau và với quê hương dân tộc.
Văn hóa Việt Nam, nhu cầu của lịch sử Việt Nam luôn luôn đòi hỏi ở người trí thức phải có trách nhiệm, có ý thức về sự hướng dẫn và xây dựng xã hội. Người trí thức phải có ý thức chính trị, không phải cần tham gia vào tổ chức chính trị, nhưng phải biết suy nghĩ và đo lường hành động và thái độ sống như thế nào để góp phần xây dựng một đất nước tiến bộ về cả hai phương diện tinh thần và vật chất. Người trí thức Việt Nam không phải là người chỉ biết chuyên môn, hiểu luật pháp và tìm cách len lỏi vào khe hở của luật pháp để tìm cái lợi vật chất cho bản thân.
Miền Nam Việt Nam đã sụp đổ, người quốc gia lại thua Cộng sản một lần nữa, thua tan tác, kẻ bôn đào lưu vong, người ngậm hờn nuốt nhục trong các trại tù.
Giờ đây, Cộng sản lộ nguyên hình, họ đã chiếm xong miền Nam, lớp áo dân tộc đã được cởi ra. Đại Hội IV đã đổi tên đất nước giống như mẫu quốc Liên Sô, xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực thi đấu tranh giai cấp. Đã chấp nhận là một thành viên của khối đệ tam quốc tế thì phải nhận Liên Sô là người lãnh đạo, là đất thánh, và phải thực hiện chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, tiêu diệt tất cả thành phần đối lập, không kể tội lỗi do hành động mà tội lỗi được qui định là do thành phần giai cấp, do tư tưởng của giai cấp xã hội.
Cộng sản lại áp đật trên dân tộc Việt Nam một chủ thuyết độc tôn, một chính quyền độc tài. Đi xa hơn, họ sử dụng bạo lực để truyền bá một tôn giáo mới xây dựng trên hận thù – dùng hận thù làm động lực đấu tranh. Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi đầu bằng phong trào đấu tranh giành độc lập, nhưng khi họ nắm chính quyền họ lại đưa dân tộc vào con đường nô lệ hóa, sự nô lệ tư tưởng, sự lệ thuộc ràng buộc vào Liên Sô mọi phương diện, bị Liên Sô khai thác bóc lột người, tài nguyên, trước tiên là để trả nợ súng đạn đã vay trong thời chinh chiến. Sự nô lệ đó được giải thích dưới những từ ngữ đẹp đẽ là “sự hợp tác toàn diện với nước xã hội chủ nghĩa anh em Liên Sô”.
Xã hội Việt Nam không có giai cấp tính, mọi sự thăng tiến trong xã hội Việt Nam là do sự làm việc và cố gắng của mỗi cá nhân. Việt Nam không có chế độ gia tộc như ở Trung Quốc. Căn bản tổ chức xã hội Việt Nam là gia đình và xã thôn tương đối dân chủ và bình đẳng với mọi người.
Người Việt Nam không xây dựng một triết lý riêng biệt, tư tưởng Việt Nam hài hòa và chiết trung mọi tư tưởng văn hóa du nhập đến Việt Nam: Nho, Thích, Lão, Ki Tô, không có mâu thuẫn tư tưởng, không có mâu thuẫn đối kháng. Do đó, những luận cứ của chủ nghĩa Cộng sản đều không phù hợp với trường hợp Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam trong nhất thời mạnh về tổ chức trong khi người Quốc gia đang tan vỡ. Nhưng dân chúng Việt Nam đang từ khước chủ thuyết Cộng sản vì nó không phù hợp. Vậy chế độ Cộng sản không thể nào tồn tại và phát triển ở Việt Nam được. Bằng hình thức này hay hình thức khác nó sẽ bị đánh bại và bị đào thải.
Hoạt và tôi cố gắng trong điều kiện khó khăn ở trong tù để trao đổi, tạo cho nhau một niềm tin – vì niềm tin đó rất cần thiết để vững sống trong những ngày cơ cực kéo dài trong nhà tù Cộng sản. Sau trại tạm giam, chúng tôi còn phải làm lao động khổ sai ở các trại lao động cải tạo mà ngày về thì thật xa vời.
Một khi đã khẳng định niềm tin là chế độ Cộng sản phải sụp đổ, chúng tôi thấy mình phải sống khỏe mạnh cho đến ngày về. Đấu tranh với bản thân để không bị hủy hoại về tinh thần và thể xác, để giữ được lòng tự trọng, một thái độ sống cũng là một vấn đề rất gay go của những người tù chính trị. Phải cố gắng tạo niềm tin và truyền niềm tin cho nhau, nếu không sẽ bị tha hóa trong môi trường khổ cực này.
Cách thức để có thể nói chuyện trao đổi với nhau trong phòng giam tránh sự dòm ngó, báo cáo của nhà trưởng và ăng ten là: trước tiên, chúng tôi phải cố quan sát và nhận định cho đúng người – Thứ đến là phải có cách để nói chuyện. Chúng tôi bày ra cách học tử vi, bói dịch và xem chỉ tay. Dĩ nhiên, những điều này đều bị nội qui cấm. Nhưng tất cả các tên ác ôn, trưởng phòng hay cán bộ Cộng sản thoái hóa đều ở chung với chúng tôi, tên nào cũng thích bói toán, tên nào cũng lo âu, muốn biết vận mạng của mình ra sao. Xem bói cho tên nào cũng nói thật tốt, chỉ ra một tương lai tốt đẹp cho họ, một hy vọng là sắp được ra khỏi tù thì không ai báo cáo, và nếu có bị báo cáo thì tội bói toán mê tín cũng chỉ bị kỷ luật nhẹ, không bị nâng quan điểm chính trị. Vốn hiểu biết về tử vi của tôi không bao nhiêu, và tôi cũng không mấy tin vào tử vi bói toán, chỉ đọc qua một vài cuốn sách để biết khái quát, những ước định và thuật ngữ để có thể nghe người khác nói chuyện mà hiểu được họ nói gì.
Thời kỳ trước 1975, tử vi, bói toán rất thịnh hành ở miền Nam, nhất là trong giới cầm quyền cao cấp. Mỗi lần đi công tác về các tỉnh, sau buổi làm việc ban ngày, buổi tối các ông Tỉnh thường hay mời cơm tại nhà. Trong khi ăn cơm nói chuyện, chúng tôi thường muốn biết những vấn đề chính trị tại địa phương, các ông Tỉnh trưởng thì lại muốn biết những mối quan hệ giữa ông Tổng thống và Thủ tướng ở mức độ nào, nhất là sau khi có sự mâu thuẫn giữa hai phủ Tổng thống và Thủ tướng, các ông Tỉnh trưởng lại cần biết rõ hơn mức độ mâu thuẫn để họ dễ đối xử, từ sự tìm hiểu đó, các ông Tỉnh trưởng xoay qua vấn đề tử vi, họ nói rất trôi chảy số mạng, vận mạng của lá số 4 tí, cách Tử Phủ Vũ Tướng của ông Thiệu và cách Sát Phá Liêm Tham của ông Trần Thiện Khiêm. Tử vi, bói toán, dịch lý, địa lý, các môn người ta gọi là khoa học huyền bí có ảnh hưởng sâu sắc trong giới cầm quyền cao cấp Nam Việt Nam, nhất là trong giới quân nhân cao cấp.
Một ông Tư Lệnh Quân Đoàn I, có phu nhân suốt ngày nhận áp phe tại một “điện” đồng bóng, mỗi tối trước khi mang gia đình và đoàn tùy tùng qua Hải Khu Đà Nẵng tránh pháo kích, phải tuân lời phu nhân đốt hương lạy tại bàn thờ mẫu. Một ông Đại tá, Thị trưởng Đà Nẵng, thầy bói toán nói ông ta mạng hỏa nên chỉ hợp với mầu xanh vì mộc sinh hỏa nên khi sơn quét Tòa Thị Chính, ông ra lệnh phải sơn màu xanh rồi mới quét màu trắng ra ngoài. Một ông Đại tá Tỉnh trưởng Quảng Ngãi luôn luôn mặc áo sơ mi màu mỡ gà trong bộ quân phục, vì thầy bói khuyên dùng thổ (màu vàng mỡ gà) để cho tương sinh với mạng kim của ông.
Một ông Trung Tướng Cục Trưởng được thầy địa lý xoay cái bàn làm việc hướng ngược vào bên trong xây lưng ra các bàn giấy của thuộc cấp, ngược lại tất cả quan niệm về quản trị nhân viên và công sở.
Một ông Trung tá tỉnh trưởng Lâm Đồng nghiên cứu về địa lý nói là Tổng thống Thiệu phát về bản thân thì ít, mà nhờ bà Thiệu có đất phát đệ nhất phu nhân. Cái mả của ông cụ nội phu nhân ở Phan Thiết trên giồng đất gần Lầu ông Hoàng kết phát. Chính ông Trung tá tỉnh trưởng đã tìm được một cuộc đất phát đệ nhất phu nhân ở Lâm Đồng nên đã dời mả bà cụ về cải táng nơi đó. Không biết về sau có sự linh ứng hay sự ngẫu nhiên nào đó hay là do sự kém tài địa lý của Trung tá mà cô con gái đi xe Honda bị tai nạn mù một con mắt. Không thành đệ nhất phu nhân mà thành độc nhãn. Ông Thủ tướng rất ít đi kinh lý các tỉnh hay đi thăm các đơn vị chiến đấu để khích lệ tinh thần binh sĩ, họa hoằn mỗi khi đi thì phải ra lệnh cho ông Thành, thư ký ở Bộ Nội Vụ xem ngày giờ để chọn thời điểm xuất hành cho tốt. Công trường Quốc Tế Quân Viện gọi là Công Viên Con Rùa, được xây ngoài mục đích, bên ngoài là ghi ơn các nước bạn đồng minh giúp Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu nhưng bên trong không kém quan trọng là để chận cái đuôi con rồng hay quậy. Thầy địa lý nói thế đất từ khu Trung Tâm Sài Gòn đó là một con rồng nằm, đầu rồng ở Dinh Độc Lập, đuôi rồng ở công trường trước Viện Đại Học Sài Gòn, nơi đây trước thực dân Pháp xây tượng ba người lính, được dân Sài Gòn gọi là Công Trường Ba Hình, năm 1965, sinh viên biểu tình chống lời tuyên bố lếu láo của ông De Gaule về Việt Nam, nên đã kéo sập tượng ba người lính Liên Hiệp Pháp xuống. Thầy địa lý nói từ đó, đuôi con rồng không có gì chận lại nên nó quậy làm cho Dinh Độc Lập không được yên nên trong nước hay có những biến động chính trị.
Hôm đặt viên đá đầu tiên xây công trường này, theo chỉ dẫn của thầy bói, ông Tổng thống cho tổ chức lễ trước năm giờ sáng. Đích thân ông Tổng thống đến đặt viên đá đầu tiên. Các thầy bói Diễn, thầy Ba La, thầy Minh Lộc, Đại tá Y trở thành những người nổi tiếng và thực sự có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống chính trị tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Xã hội Việt Nam đến thời suy thoái, nên xảy ra hiện tượng lạ lùng như vậy, giai đoạn chính trị thật khó khăn, chiến trường thật khốc liệt, những người lãnh đạo không bao giờ được nhắc tới như là những người lỗi lạc, can đảm, liêm chính mà chỉ được nhắc là số tốt, vận tốt. Người chỉ huy không được thuộc cấp kinh nể vì tài ba mà được kính nể vì tính chịu chơi. Người ta phê phán tham nhũng, nhưng chỉ có một lần duy nhất một tờ báo đưa ra được hình ảnh bốn tướng sạch để làm gương – còn thông thường khi nghe nói một người nào “không biết ăn tiền” thì người ta gọi kẻ đó là ngu.
Tin vào sức mạnh thần quyền trong xã hội loài người, không dân tộc nào không có, kể cả xã hội cộng sản. Không biết trước kia dân Việt Nam tin ở mức độ nào nhưng thời đệ nhị Cộng Hòa quá phổ biến. Nguyên do là vì xã hội thay đổi nhanh quá, nhiều biến cố chính trị để cá nhân thăng tiến cũng quá nhanh, có quân nhân chỉ trong vòng vài tháng đã thăng cấp từ Trung tá lên Chuẩn tướng. Chiến tranh mở rộng, Hoa Kỳ đổ vào nhiều tài sản, nên có sự “rớt rụng” ra bên ngoài, nên những người may mắn làm giàu nhanh quá, từ tay trắng sớm trở thành tỉ phú. Sự thăng tiến quá nhanh và bất ngờ đó, không những khiến người ngoài mà ngay cả bản thân người may mắn lên quí, lên phú cũng không thể tin ở tài ba của mình, mà phải tin vào số mạng. Một người có thể ghi tên nhập vào trường sĩ quan không có một ước vọng gì cao xa ngay chính cho bản thân họ, đừng nói là ước vọng làm gì cho tổ quốc, khi ra trường làm việc dưới quyền của một sĩ quan Pháp. Thấy người Pháp nói tiếng Pháp giỏi hơn, xài muỗng, nĩa, dao trong bữa ăn thành thạo hơn, biết sử dụng đúng các loại rượu vang trắng, đỏ hợp với các món cá, món thịt hơn. Thời gian đó họ sống bình lặng, cam phận, đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Tổng thống và đảng Cần Lao vẫn là cái gì xa cách, đáng nể, đáng sợ đến cả những anh em của Tổng thống và gọi những anh em của Tổng thống bằng Cụ và xưng con thì họ vẫn cam phận thủ thường, đến khi lật đổ chế độ, không còn có sự áp lực đè nặng lên trên, có người trong thời gian ngắn thăng tiến và có cơ hội nắm chính quyền. Khi nắm quyền Thủ tướng, Tư lệnh, Tổng Bộ trưởng thì họ gần như ngộp thở, ăn nói bậy bạ, tuyên bố vung vít, không đúng tác phong như một người từng có ý thức, có hoài bão tranh đấu nắm chính quyền để phục vụ.
Người ta ngạc nhiên tại sao tình trạng quân nhân nắm chính quyền tương đối phổ thông trên thế giới, ở những nước khác không có chiến tranh, hoặc chỉ có chiến tranh nhỏ, mà người quân nhân khi nắm chính quyền được uy tín. Trái lại tại miền Nam Việt Nam chiến tranh tàn khốc, chiến thắng lớn nhưng người quân nhân nắm chính quyền không được uy tín. Một nguyên nhân sâu xa là ý thức và hoài bão khác nhau. Đọc tiểu sử ông Nasser, ông Sadat lãnh đạo Ai Cập, mới biết họ là một nhóm sinh viên Ai Cập đi học luật khoa ở Anh Quốc. Ngay lúc còn trẻ tuổi đó, họ đã có ý thức là muốn đấu tranh giành độc lập cho một nước nhược tiểu phải đấu tranh và lãnh đạo quân sự cho nên họ đã từ bỏ trường luật để đi vào trường sĩ quan. Khi có cơ hội nắm được quyền hành chính trị, ông Nasser vẫn là Đại tá, không ham hố vội vã phong cho mình lên Tướng. Thiếu tướng De Gaule, lập chính phủ Pháp lưu vong chống Đức quốc xã, khi thành công De Gaule vẫn là Thiếu tướng, nhưng ông là Tổng thống, cha già của dân tộc Pháp.
Sau đảo chính năm 1963, sau khi lật đổ và giết chết ông Tổng thống mà trước đó họ gọi Cụ xưng Con, và ông cố vấn mà người ta sợ đến cả vợ con ông ta, “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” không biết làm gì tiếp theo ngoài việc tự thăng chức cho mỗi người; bãi bỏ lệnh cấm nhảy đầm, và tuyên bố bỏ ấp chiến lược. Cả ba quyết định không có gì đáng gọi là cách mạng, kể cả việc mời ông Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ra lập chính phủ cách mạng. Việc bãi bỏ ấp chiến lược là một sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và làm sụp đổ cái ưu thế phòng thủ ở địa phương mà sau này xây dựng trở lại rất khó khăn.
Ý thức trách nhiệm của một người đối với đất nước, phục vụ cho quê hương dân tộc vô cùng quan trọng vì nó điều hướng việc học, việc làm của mỗi con người về sau – tài năng bản lãnh không khác nhau nhiều ở mọi người khi được huấn luyện và từng trải, nhưng khác nhau là cái sâu sắc ở mỗi con người có ý thức và hoài bão hay không. Chế độ thực dân Pháp nhằm đào tạo những người tay sai bản xứ trong mọi ngành trong chính quyền, nên chính sách giáo dục của họ nhằm tiêu diệt ý thức độc lập, tinh thần yêu nước, trong khi sử dụng người, họ cũng triệt tiêu mọi mầm mống chống đối, họ ưu đãi cho những người ngoan ngoãn tay sai, nên đời sống chính trị tại miền Nam sau này ảnh hưởng trầm trọng. Trong mọi địa hạt chính quyền, mọi giới trí thức: bác sĩ, luật sư đa số là những con người kém ý thức chính trị, nặng tinh thần nô lệ và đầu óc hưởng thụ vinh thân phì gia – nên đất nước không thể đi lên được, và miền Nam không trực diện đấu tranh về chính trị với miền Bắc được, trong khi miền Bắc Cộng Sản còn lợi dụng được ngọn cờ giải phóng dân tộc, họ còn mang huyền thoại kháng chiến yêu nước và cách mạng xã hội.
Thành phần sĩ quan viên chức trẻ sau này, có một thời gian ngắn ngủi thái bình, được giáo dục trong tinh thần độc lập, có được ý thức trách nhiệm và hoài bão đối với dân tộc nhưng một phần bị rơi rớt khi va chạm khó khăn thực tế, phần còn lại chưa đủ tầm cỡ nắm những nhiệm vụ then chốt trong chính quyền và quân đội để thi thố hoài bão của mình, trong khi những gì họ kết tạo được cho chính tim óc, mồ hôi, nước mắt và cả máu – ngược lại những người đàn anh ra nắm chính quyền chỉ nhờ sự khéo léo hay thời cơ lịch sử lúc giao thời, thành đạt nhanh chóng và bất ngờ như phép lạ nên họ tin vào số mạng.
Chúng tôi mong được đóng góp và chia sẻ với những anh em trẻ bị bắt trong các tổ chức phục quốc. Giúp họ thêm một phần hiểu biết, cộng với nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng căm thù sâu sắc với Cộng sản, để trước hết là những ngày tù không trở nên vô ích, không bị hủy hoại tinh thần trí óc bởi sự nhàn rỗi. Thứ nữa, để anh em hiểu biết rằng là tại sao mình chống Cộng và mình chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước – Lòng căm thù là một động lực để có hành động chống Cộng, nhưng lòng căm thù chưa đủ, và lòng căm thù lại càng không thích hợp cho sự xây dựng. Chúng tôi làm như vậy vì nghĩ là chúng tôi là thành phần sắp bị đào thải. Chúng tôi phải có trách nhiệm với những thanh niên ở thế hệ sau. ít ra, trước kia hơn một lần, thời mới bước chân vào đời, chúng tôi đã oán trách là thế hệ đàn anh không để lại cái gì cho chúng tôi. Sau này, với cái gia tài tan nát của đất nước, các bạn trẻ cũng sẽ có ý nghĩ là thế hệ chúng tôi không để lại cái gì cho họ ngoài sự thất trận nhục nhã.