Trại Kiên Giam : Chương Một

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực
 

 

Chương Một

Những chiếc trực thăng Chinook và UH-1 cuối cùng khuất dạng về hướng biển, trời Saigon trở lại vắng và buồn, thỉnh thoảng đâu đó vang lên một tràng đạn lẻ tẻ, đường đạn vạch lên khung trời xám mờ đục. Thật xa, một vài tiếng đại bác cầm chừng. Mọi nhà đóng cửa, hoặc cánh cửa sắt kéo lại chỉ để khoảng trống một người đi, trên đường chỉ có những người lính tan hàng mặc áo trận, quần đùi lặng lẽ và hối hả từ ngoại ô đi vào thành phố. Những người không di tản kịp dìu dắt nhau trở về nhà, mặt ai nấy buồn xo thất vọng, lo âu. Saigon hồi hộp chờ Quân Đội Giải Phóng vào tiếp thu. Đài phát thanh ban lệnh của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi các đơn vị giữ vững vị trí.

6 giờ 30 chiều, ba tôi không mở đài BBC như mọi ngày, ông hoàn toàn thất vọng vì biết chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa nên không cần theo dõi tin tức thời sự. Đài phát thanh BBC là cơ quan truyền thông ảnh hưởng trong đời sống dân Việt Nam nhất. Những người có quan tâm ít nhiều đến tình hình chính trị đều nghe và tin vào tin tức, và lập luận của đài. Có thể nói đối với miền Nam Việt Nam vào thời đó, đài BBC có sức mạnh làm sụp đổ một chính phủ, làm thay đổi được một cục diện chính trị. Không hiểu vì vô tình hay cố ý, thời gian từ sau ngày Ban Mê Thuột thất thủ, hầu như đài BBC đều loan những tin tức bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa.

Tỉnh Quảng Tín chưa mất, họ đã loan các tin tỉnh đã mất trong bản tin tức tối 25-3-1975. Phóng sự “cuộc giao lưu của hai nền văn minh Honda và xe đạp” tại Đà Nẵng ca ngợi Việt Cộng như một đoàn quân chính nghĩa.

Sau khi tuyến phòng thủ Xuân Lộc vỡ, chính phủ Vũ Văn Mẫu yêu cầu phái đoàn quân sự Mỹ DIA, DAO rút lui, ba tôi không tiếp tục nghe đài BBC, ông chỉ ngồi thở dài.

7 giờ sáng ngày 30-4-75, đài Saigon loan tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện và lệnh của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cho các đơn vị trưởng quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp xúc với cấp chỉ huy “quân giải phóng” để bàn giao địa điểm. Tôi đã khóc, cả nhà tôi khóc, dù tin đó không đột ngột. Một tháng trước đây, khi nhận được cú điện thoại của người bạn từ Đà Nẵng cho biết “quân giải phóng” đã vào thành phố, tôi cũng đã khóc, đầu gối mềm nhũn ra, đứng không vững.

Ngày 25-3-75, từ Saigon tôi về Đà Nẵng để đưa gia đình ba mẹ và các em tôi vào Saigon. Cuộc di tản kinh hoàng ra khỏi thành phố quê hương tôi, đã ảnh hưởng đến tinh thần của tôi. Tôi chán nản cùng cực. Một trong những lý do khiến tôi không rời Saigon ngày 30-4-75.

10 giờ kém 15, toán quân Bắc Việt đầu tiên kéo vào trung tâm Saigon qua ngả đường Hùng Vương, Thị Nghè, đi đầu là những xe tăng T.54 và thiết giáp PT-76. Cần anten trên mỗi xe có gắn cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thỉnh thoảng một xe gắn cờ Đỏ Sao Vàng của Bắc Việt. Chiếc tăng đi đầu đậu lại trước nhà tôi vì trên cầu Thị Nghè còn một chiếc M-41 án ngữ. Một tràng đại liên của người lính dũng cảm cuối cùng nào đó từ M-41 làm số người tò mò ra đứng hai bên đường chạy rạt vào các nhà và các hẻm. Một người lính Cộng Sản ngồi trên xe tăng và hai người lính Cộng Hòa tan hàng đi trên đường chết ngay lúc đó. Có lẽ đó là những người lính bất hạnh chết cuối cùng tại giờ kết thúc cuộc chiến. Đoàn xe tăng Cộng Sản lùi một đoạn và chuẩn bị tư thế tác chiến. Hai phát đại bác của họ làm cháy chiếc M-41, trong đó có người lính thiết giáp chiến đấu để tự sát. Một người lính Biệt Động Quân tan ngũ bị thương lết vào nhà tôi xin băng bó.

“Quân giải phóng tiếp tục vào thành phố, sau đoàn xe tăng và thiết giáp, họ đi bằng Molotova, xe Bắc Kinh, xe Jin, GMC và xe Jeep. Những người tò mò lại ra đường đứng thưa thớt vẫy tay, chào ngượng ngập và e dè. Một vài người chỉ trỏ vào một người ngồi trên xe Jeep trông dáng mập mạp, oai vệ, khác với vẻ ốm yếu tiều tụy của các quân nhân “giải phóng” khác, thầm thì với nhau: “Tướng Dương Văn Nhật”. Từ lâu vẫn có tin đồn Tướng Dương Văn Minh có người em là Dương Văn Nhật bên hàng ngũ Cộng Sản. Người ta đồn Tướng Dương Văn Nhật chỉ huy trận Bình Giả năm 1964. Hôm nay, người ta lại đồn Tướng Dương Văn Nhật vào tiếp thu Saigon, nhận sự đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh.

Trong xã hội miền Nam thường có những tin đồn đãi, và người ta tin ở những tin đồn hơn là sự giải thích của các cơ quan thông tin của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Khi một chính quyền không được dân chúng tin cậy, đó là hiện tượng phổ thông. Những tin đồn thường không có lợi cho chính quyền Cộng Hòa, có thể đó là một lối tuyên truyền của Cộng Sản, và những tin đồn chỉ phát xuất từ một số người vô công ngồi rồi, ăn nói vô trách nhiệm. Cũng có những lời đồn là sự thật, sự thật về các bê bối trong thâm cung bí sử của các nhân vật lãnh đạo mà không ai dám nói công khai. Cuộc chiến ý thức hệ vô tình cũng như cố ý làm thành cuộc nội chiến. Về phía Cộng Sản, họ che dấu hình thức chiến tranh ý thức hệ thành cuộc chiến tranh giải phóng để tạo chính nghĩa, và phía Việt Nam Cộng Hòa, không đủ khả năng thuyết phục dân chúng chiến đấu chống Cộng Sản, một thứ ngoại xâm tư tưởng, sử dụng người Việt làm phương tiện.

Đài truyền hình Saigon phát hình ảnh chiếm Dinh Độc Lập, chiếc T-54 ủi sập cánh cổng chính không một kháng cự, người lính từ trên xe nhảy xuống cầm cờ Giải Phóng chạy vào Dinh, lên tầng lầu đứng vẫy, biểu dương chiến thắng. Sau đó, cờ được kéo lên trụ cờ ở nóc Dinh. Tôi cố kềm hai dòng nước mắt lăn vô ích trên má.

Chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Phía Cộng Sản, một người sĩ quan không được giới thiệu tên; bên đầu hàng, tôi nhận ra các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Hảo, Lý Quý Chung và một số người khác.

Kết thúc 21 năm chiến đấu bằng sự đầu hàng vô điều kiện sau một tháng đổ sụp của một đội quân không chiến đấu, từng tỉnh, từng sư đoàn bỏ chạy trước khi quân địch đến.

Chỉ có Sư đoàn 18 Bộ Binh giữ trận tuyến Xuân Lộc và Sư đoàn 5 Bộ Binh giữ trận tuyến Chơn Thành được vài ngày.

Trận chiến 21 năm tàn khốc, có khi giành nhau từng tấc đất, ngọn đồi, rồi kết thúc bởi một sự sụp đổ mà trong đó người thua không biết vì sao mình thua nên ấm ức, dằn vặt, tiếc nuối. Kẻ chiến thắng cũng không hiểu sao mình chiến thắng. Sau này đọc hồi ký của Tướng Văn Tiến Dũng càng thấy rõ điều đó, Chính Trị Bộ Bắc Việt dự tính năm 1976 mới tổng tấn công mà năm 1975 họ đã chiến thắng, cũng như hồi ký của Tướng Trần Văn Trà cho biết quyết định tấn công là quyết định của các tướng ở chiến trường miền Nam, trong khi bộ phận đầu não ở Hà Nội không có một triển vọng chiến thắng quân sự trong một thời gian ít ra là 2 năm.

Càng đọc, càng nghe, càng đau, đau cho cá nhân mình, đau cho bạn bè đã nằm xuống, và đau cho thân phận nhược tiểu. Người ta cần đánh, người ta bơm vũ khí lương thực để đánh. Người ta không cần đánh, người ta rút bỏ mọi phương tiện, tổ chức các cuộc rút lui để khóa tay người chiến sĩ. Hệ thống truyền thông được sử dụng làm tan rã hàng ngũ và họ cũng không quên sỉ nhục những người từng được họ ca tụng như chiến sĩ anh hùng đã chiến đấu bên cạnh họ. Trong gần 30 năm chiến đấu chống Cộng Sản, người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam như là “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, đỡ gạt, tự vệ, tấn công giới hạn khi bị địch tấn công, mà không nhìn được tận mắt kẻ thù, không nhìn rõ ý nghĩa cuộc chiến, không lập được kế hoạch chiến đấu với đầu óc của mình nên không tự lực chiến đấu và cũng không tự mình làm thua trận.

Suốt đêm 30-4, Đài Truyền Hình Saigon chiếu những bộ phim tuyên truyền về những cuộc hành quân xuyên Trường Sơn, người bộ đội Bắc Việt hành quân dưới bom đạn của Mỹ, những thanh niên xung phong nam nữ đội bom mở đường cho bộ đội tiến quân, cảnh những thanh niên dầm nước lũ của các con suối dưới trời mưa tầm tã kê vai gánh những thanh sắt thành chiếc cầu tạm cho quân xa vượt qua. Vốn đã khâm phục về sự chịu đựng gian khổ của quân Bắc Việt, những hình ảnh tuyên truyền đó làm tăng sự khâm phục của người miền Nam.

Meeting mừng chiến thắng và diễn quân mừng ngày Lao Động 1-5-1975 được tổ chức thật nhanh và thành công, người Saigon túa nhau đi xem, họ được tận mắt thấy những hỏa tiễn 122 ly, pháo 130 ly, phương tiện hỏa lực từ sau trận Mậu Thân đã nhiều lần làm họ khiếp đảm.

Phim “Sống Như Anh” về cuộc đời của một “thần tượng” mới, “thần tượng Nguyễn Văn Trổi”. Vì chỗ bà con trong họ với chú Trọi (tên thật, sau khi chết hệ thống tuyên truyền Việt Cộng đổi tên là Trổi), tôi biết chuyện phim 9/10 là ngụy tạo giả dối. Chú Trọi hiền lành, từ làng quê, tránh chiến tranh vào Saigon làm nghề thợ điện, chú ở nhà một người cùng làng trong khu Trương Minh Giảng, đó là một cơ sở Việt Cộng nằm vùng. Chú được móc nối giao công tác đặt mìn cầu Công Lý để nhằm giết MacNamara. Công tác thất bại, bị bắt, bị án tử hình. Sau khi chú Trọi bị xử bắn, đài Bắc Kinh loan tin là chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đổi tên công viên Bắc Kinh thành công viên Nguyễn Văn Trổi – Chính phủ Cu Ba loan tin đổi tên Đại Học La Habana thành Đại Học Nguyễn Văn Trổi – Cả một chiến dịch tuyên truyền của Cộng Sản quốc tế làm Nguyễn Văn Trổi thành anh hùng chống Mỹ. Truyện, phim viết về Nguyễn Văn Trổi thành một thần tượng anh hùng. Thời gian những năm đầu mới chiếm miền Nam, đâu đâu cũng thấy tên Nguyễn Văn Trổi, bệnh viện, công viên, đường phố, trường học.

Trong cuộc chiến đấu, Cộng Sản tạo nên những thần tượng để tuyên truyền. Lúc nhỏ ở vùng Cộng Sản trong đoàn ngũ nhi đồng, tôi được dạy Bác Hồ là người nhà Trời, Bác Hồ có hai con ngươi ở mắt, người thường có một con ngươi, người ta chỉ cho trẻ con chúng tôi hình Bác Hồ trong con mắt có hai điểm sáng nổi bật trong tròng đen của mắt. Sau này lớn lên tôi mới biết, khi chụp ảnh dưới một góc sáng nào đó, mắt người nào cũng có hai điểm sáng. Tôi cũng được kể chuyện Bác Hồ bắt gián điệp, Pháp gài một tên gián điệp huấn luyện ở Ăng Lê, tên Tạ Đình Đề về xâm nhập để ám sát Bác Hồ. Tên gián điệp đó đến nhà Bác, nằm ở trên máng xối, chờ cơ hội giết Bác. Bác biết (vì không có gì Bác không biết trước), Bác bình tĩnh giở nồi cơm và bới hai chén, dọn thức ăn, ngồi xuống ung dung, gọi tên gián điệp ra ăn cơm với Bác. Sau nhiều lần bị khám phá như vậy, tên gián điệp khâm phục Bác xin quy hàng, sau thành ra một cán bộ trung kiên của Bác. Nhiều nữa, người ta kể rất nhiều huyền thoại Hồ Chí Minh.

Ông Hồ Chí Minh đi làm cách mạng, về nước ông gặp được nhiều thuận lợi. Thứ nhất, là đảng viên của Cộng Sản quốc tế, ông có tầm nhìn rộng rãi về tình hình và những biến chuyển thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến. Thứ hai, dân chúng Việt Nam đang thiết tha độc lập, lợi dụng được lòng yêu nước của toàn dân, ông dễ dàng áp dụng sách lược cách mạng của Lenine ngụy trang cuộc chiến tranh ý thức hệ, cuộc cách mạng vô sản chuyên chính dưới chiêu bài giải phóng dân tộc. Hệ thống tuyên truyền của Việt Cộng càng ngày càng tô điểm hình ảnh của ông thành một người phi thường. Đúng như ước vọng của người dân còn nặng óc tôn quân văn hóa nông nghiệp, họ luôn luôn nghĩ đến một người lãnh đạo phi thường, một đức minh quân với những quyền uy thiên phú.

Chủ trì cuộc diễn binh là Chủ tịch Tôn Đức Thắng, bên cạnh có Lê Đức Thọ, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trần Văn Trà … Trừ các tướng mặc quân phục; phía chính trị, ông Tôn Đức Thắng đến Lê Đức Thọ, mọi người đều mặc áo sơ-mi cụt tay, bỏ ngoài quần, rất bình dân; một đoàn thiếu nhi quàng khăn đỏ và các lẵng hoa. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đọc thật vất vả bài diễn văn chào mừng chiến thắng độ hai trang giấy, giọng run run và nhiều lần cà lăm, cụ già đọc chữ không thông có thể vì mắt mờ không thấy rõ chữ, hoặc dịch không kịp chữ quốc ngữ. Thỉnh thoảng người cán bộ đứng hầu quạt phải tiếp ông cụ già một ly nước hoặc một viên thuốc.

Khi nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, giọng cụ Tôn Đức Thắng tỏ ra nghẹn ngào, cụ ngừng đọc, rút khăn lau nước mắt. Mọi người trên khán đài lấy khăn lau nước mắt.

Thành phố Saigon đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Người và các sản phẩm tràn ra chợ trời Trương Minh Giảng, ở đó có thể mua đủ thứ hàng từ các kho bị đánh cướp trong “ngày giải phóng”, và hàng từ các vật dụng trong nhà của dân Saigon. Saigon bình yên và ít biến cố nên người dân ít giữ tiền, sau vài ngày thảng thốt ban đầu, người ta bắt đầu nghĩ đến thực tế, phải có đồng tiền thay thế lương bổng, và các lợi tức gia đình – muốn có tiền chỉ còn cách duy nhất là đem đồ đạc trong nhà ra bán, giữ lại tối thiểu vật dụng còn thì bán hết, bán để lấy tiền, bán vì sợ có thể bị ghép tội, như các loại máy chữ, máy quay phim, máy ảnh được đem ra bán nhiều nhất với giá rẻ. Người ta phân vân chưa biết “chính quyền cách mạng” sẽ làm gì, chỉ có phán đoán và truyền những ước đoán của mình cho người khác. Người ta đi sắm xe đạp, may áo quần đen, bỏ giầy đi mua dép râu. Cái hiểu biết quá đơn sơ về Cộng Sản nên đa số chỉ nghĩ là phải khổ và chịu khổ được, chịu ăn mặc xấu xí được là có thể sống yên thân trong chế độ Cộng Sản. Chợ trời trao đổi buôn bán tấp nập. Các khu phố chính Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn, Gia Long đóng cửa im ỉm, nhiều nhà xác nhận sự hiện diện của gia đình bằng cách bắc cái ghế, đặt một cái mâm trên để vài chén chè, vài đĩa xôi để bán, trông như cảnh ma chay tập thể với những món đồ cúng đơn sơ.

Trên các lề đường, hình thức sinh hoạt kinh tế mới mẻ, những quán cà phê vỉa hè, những chỗ vá xe đạp và quán làm và bán dép râu. Xe hơi bỏ ngổn ngang trên đường phố chỉ bị gỡ lấy lốp xe để làm dép râu. Nhưng những người làm dép râu không phát đạt được lâu, chỉ thời gian đầu có những người lo xa, những người có chương trình về quê canh tác, những viên chức sĩ quan đi học tập cải tạo. Đa số dân Saigon không chịu mang dép râu đội mũ tai bèo.

Các quán cà phê vỉa hè thì do các em nữ học sinh hay nữ sinh viên, các em gái con nhà đàng hoàng mở ra để có sinh hoạt qua ngày chờ những biến chuyển khác từ chính quyền ban xuống. Quán cà phê cũng còn do các em vũ nữ sau khi vũ trường đóng cửa hay các em gái giang hồ tạm ngưng hoạt động ở các động, các đường hẻm, vì sợ – ai cũng sợ, sợ chính quyền cách mạng và lo âu không biết cuộc đời họ sẽ thay đổi ra sao.

Người lính giải phóng trông ngờ nghệch, lúng túng trước cảnh rộn rịp và to lớn của Saigon, phần lớn họ rất trẻ. Trong hàng ngũ cán binh của Cộng Sản nổi bật hai lớp tuổi, thành phần thật già và thành phần thật trẻ. Tuổi trung niên thật hiếm, có lẽ hầu hết đã chết trong cuộc chiến. Nhìn vẻ ngờ nghệch, quê mùa của lính cách mạng, có người tức tối vì miền Nam thua một địch thủ không xứng đáng, nhưng cũng có người khâm phục, cho đó là sức mạnh của kỷ luật. Đài Truyền Hình Saigon phát hình cuộc phỏng vấn Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa. Ông Vỹ thán phục tinh thần kỷ luật của Quân Giải Phóng, ông tưởng tượng nếu quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào thủ đô Hà Nội thì theo ông, chắc chắn sẽ xảy ra bao cảnh cướp bóc, hãm hiếp, giết người. Nghe ông Vỹ so sánh, tôi thấy xót xa cho những người lính Cộng Hòa mà ông Vỹ gọi là “ngụy quân”, từ ngữ của kẻ chiến thắng chỉ người chiến bại. Nếu một người dân bình thường nào đó so sánh và phát biểu, tôi không đau đớn, vì người dân đó, hoặc do một thiên kiến, hoặc do một sự hiểu biết không đầy đủ, cục bộ; đằng này sự phát biểu từ một người từng là lãnh đạo quân đội Việt Nam Cộng Hòa, lãnh đạo từ khi nó còn là Quân Đội Quốc Gia; người giữ chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng lâu nhất. Nếu một quân đội vô kỷ luật thì trách nhiệm của ông Tổng Trưởng Quốc Phòng như thế nào? Tôi chỉ là một sĩ quan biệt phái, thời gian quân vụ của tôi chỉ là thời gian huấn luyện ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra làm việc nhiều khi sát cạnh với người quân nhân tại các quận, nhiều lúc tôi cũng chiến đấu như người lính để bảo vệ quận khi bị tấn công hay pháo kích, làm việc ở Tỉnh Quảng Nam nơi có nhiều đơn vị quân đội Việt Nam và đồng minh đóng như Trung Đoàn 51BB, Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 3, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Bộ Binh Hoa Kỳ, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Sư Đoàn Thanh Long Đại Hàn – 18 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tiểu Khu. Trong suốt sáu năm ròng từ 1966 đến 1973, thời kỳ chiến trường sôi động nhất, nhưng những vụ do binh sĩ sách nhiễu dân chúng hầu như chỉ có lẻ tẻ, không ở mức độ quan trọng. Tôi nhớ lúc nhỏ, làng tôi có một đồn do một Đại Đội Pháp và Commando đóng, những vụ hiếp dâm, đốt nhà, cướp của xảy ra ngày một.

Đất nước chúng ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh quá gần nhau, là một cuộc chiến thời Pháp-Việt và cuộc chiến do Bắc Việt xâm lăng. Bản chất hai cuộc chiến khác nhau nhưng ít người nhận thấy, Cộng Sản họ cố tình đồng hóa hai cuộc chiến làm một – họ đồng hóa vai trò của người Mỹ giống như người Pháp, nên những xấu xa của những người lính viễn chinh Pháp họ gán cho người Mỹ, và những xấu xa của quân đội thuộc địa Pháp kể cả những người lính Commando hay Partisan của người Việt Nam vào lính Việt Nam Cộng Hòa. Những thay đổi, những tiến bộ của người lính Việt Nam Cộng Hòa không ai chịu nhìn nhận. Với những thiên kiến họ làm trầm trọng hóa những lỗi lầm nho nhỏ, vô tình hay cố ý phụ họa theo tuyên truyền của địch.

Người dân thành phố vô tình và người dân thôn quê bị Cộng Sản tuyên truyền mới nghĩ khác hơn. Tôi không thể tưởng tượng được người ngộ nhận đó là ông Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng. Nhận xét của ông Vỹ có thể do sự hèn nhát, muốn nói cho vừa lòng những người Cộng Sản phỏng vấn ông, hoặc với tinh thần một người lính thuộc địa, từng mang quốc tịch Pháp, những người thực dân đã dày xéo đất nước gần 100 năm, thời còn là binh sĩ hay sĩ quan cấp nhỏ, ông đã từng bắt chước theo quân đội mẫu quốc của ông về các hành động hãm hiếp, cướp bóc, nên luôn luôn nghĩ binh sĩ dưới quyền của ông cũng xấu như vậy.

Thật đáng thương cho những người lính Cộng Hòa đã chết trên chiến trường và sắp chết trong ngục tù Cộng Sản, họ phải chiến đấu dưới quyền chỉ huy của những tướng lãnh như ông Vỹ. Thương cho người Sĩ Quan Nhảy Dù chỉ huy đơn vị trấn đóng ở sân Hoa Lư tự sát sau khi cho binh sĩ giải tán sáng 30-4; thương cho những thương binh Việt Nam Cộng Hòa bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa một ngày sau khi Việt Cộng chiếm Saigon, trên vết thương của họ vẫn còn nhuốm máu; thương cho những người chiến sĩ đã chết mà mộ của họ đang bị đào xới trả thù.

Ấp Ba Xã Thạnh Mỹ Tây tổ chức học tập chính sách – các gia trưởng đều được mời đi dự phiên họp. Bài học đầu tiên của chính quyền mới nên mọi người đều muốn nghe, muốn biết những gì thuộc chính sách để đối phó lại, và coi bản thân mình sẽ được đối xử ra sao. Ngồi bàn chủ tọa có Út Ba, người cán bộ miền Nam từ mặt trận về; chị Tư Nở tổ trưởng phụ nữ, cán bộ nằm vùng, trước buôn bán bánh da lợn trong Chợ Thị Nghè – Hai Nên thư ký ấp, trước làm công cho Thiếu tá Bê, Ủy Viên An Ninh; anh Năm Cần đạp xích lô, cán bộ nằm vùng. Trước mặt đông đảo bà con mặt tên nào cũng vênh váo ta đây là kẻ chiến thắng, chỉ riêng Hai Nên, khi được giới thiệu vẫn còn bẽn lẽn. Người được Út Ba giới thiệu tên là Thành, Thượng úy, cán bộ từ Quận Thạnh Mỹ Tây xuống. Đề tài học tập là: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù của dân tộc”. Bằng một giọng Bắc ngọng lẫn lộn chữ L và chữ N, chữ D và R, hắn đọc tương đối lưu loát bài thuyết trình nội dung đại ý “lược trình về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam anh hùng từ đời Hùng Vương đến hiện tại, thời đại Hồ Chí Minh là thời đại anh hùng nhất, vì Bác Hồ và Đảng Lao Động lãnh đạo toàn dân đánh thắng liên tiếp ba đế quốc: Pháp, Nhật và Mỹ, trong đó đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ mạnh nhất, tên hung nô của thời đại …”.

Người ta bắt đầu làm quen với những từ ngữ “thời đại Hồ Chí Minh anh hùng”, “đỉnh cao trí tuệ loài người”, “cái nôi văn minh của nhân loại”. Bài thuyết trình còn nhấn mạnh “là hiện nay thế giới có ba cường quốc, Liên Sô là cường quốc quân sự, đế quốc Mỹ là cường quốc kinh tế, và Việt Nam là cường quốc chính trị”, vì Việt Nam là nước đất không rộng người không đông, đã đánh thắng đế quốc Mỹ làm gương cho các nước khác trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập … Tất cả những vinh quang hiển hách đó là nhờ sự lãnh đạo của Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Nói tới đây, Thượng úy Thanh tỏ ra xúc động, anh xin lỗi cử tọa rút khăn ra và bắt đầu sụt sịt khóc. Anh nói, anh cũng như mọi người dân miền Bắc, ai cũng kính yêu Bác Hồ, dù Bác mất đã lâu, khi nhắc đến anh vẫn xúc động – anh ân hận là khi Bác mất, anh bận công tác ở chiến trường B không về Hà Nội được để dự đám táng Bác. Thấy Thượng úy Thanh khóc, những tên khác trên bàn chủ tọa cũng lấy khăn lên thấm nước mắt.

Cuối bài thuyết trình nói về tay sai đế quốc Mỹ gồm “bọn tư sản mại bản”, “phong kiến bóc lột”, “quan liêu quân phiệt” cần được cải tạo trong diễn trình cách mạng gồm hai giai đoạn: Cuộc Cách Mạng Dân Chủ Nhân Dân và Cách Mạng Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa …

Mọi người về trong im lặng, dường như ai nấy càng ưu tư hơn với số phận mình. Bắt đầu nghe từ ngữ “cải tạo”. Cải tạo có phải là tẩy não không? Tư sản mại bản là những ai? Là những người có tài sản tiền của, nhưng đến độ nào thì được ghép vào tư sản mại bản? Thuyết trình viên không giải thích rõ, người nghe dù không hiểu cũng không hỏi, vì sợ – không khí sợ hãi càng ngày càng đè nặng trên tâm lý mọi người – quân nhân công chức Việt Nam Cộng Hòa thì thấy rõ hơn, nhóm từ ngữ “quan liêu quân phiệt” bao gồm toàn thể trong đó.

Hy vọng mỏng manh của một số người về một hình thức chính quyền Cộng Sản ôn hòa như các nước Đông Âu hay Nam Tư tan tành. Kiến thức lờ mờ về chế độ Cộng Sản, khiến nhiều người chỉ phân biệt một cách đơn giản là Cộng Sản Trung Quốc sắt máu, Cộng Sản Liên Sô thì tương đối ôn hòa, Cộng Sản Đông Âu thì đỡ hơn hết. Năm 1974, nhiều báo Mỹ nói về Cộng Sản Nam Tư, và tiếc rẻ là Tổng Thống Truman bỏ cơ hội biến Hồ Chí Minh thành một Tito ở Á Châu khi từ khước hai thư xin viện trợ của ông Hồ. Những sự hiểu biết không đầy đủ như vậy khiến sự sai lầm càng trầm trọng hơn. Người ta không phân biệt được là chính sách Cộng Sản Quốc Gia của Nam Tư là chính sách đối ngoại, một may mắn của lịch sử Nam Tư khiến Staline không thể đem quân chiếm Nam Tư như các nước Đông Âu khác, nên Tito đã độc lập được với Mạc Tư Khoa. Vấn đề nội chính Tito cũng áp dụng đấu tranh giai cấp và giết người hàng loạt trong những tấm mồ tập thể.

Tâm lý đứng núi này trông núi nọ, tình hình chính trị tồi tệ của miền Nam, sự kém hiểu biết về Cộng Sản làm nhiều người không còn sợ Cộng Sản. Có người nghĩ là miễn có hòa bình để chấm dứt các đau khổ chiến tranh gây ra, còn nếu một chính quyền Cộng Sản thế nào đó giống như Cộng Sản Đông Âu người ta có thể chịu được với sự hy sinh ít nhiều về đời sống vật chất, chịu đựng kham khổ lúc ban đầu. Hình thức tuyên truyền về người Cộng Sản răng đen, mắt ốc nhồi, cầm mã tấu vấy máu trẻ em trở thành nhàm chán, hình ảnh tuyên truyền quá đáng về 7 người lính Cộng Sản đu cành đu đủ không gẫy trở thành phản tác dụng. Do đó, hình ảnh “Saigon tắm máu” nỗ lực cuối cùng chống Cộng Sản trên mặt trận tuyên truyền không đạt nhiều kết quả, trong khi đó đài BBC, và tin của người dân chạy đường bộ vào đến Saigon thì Việt Cộng tiếp thu các tỉnh miền Trung một cách ôn hòa.

Saigon bắt đầu xôn xao vì tin tức chính sách giãn dân để rút dân số Saigon còn 500.000 và chính sách cải tạo.

Những gia đình nghèo trong các khu đông đúc, những ngày đầu nhận “gạo cứu đói” được nằm trong danh sách giãn dân đầu tiên. Thành phần dân nghèo thành thị thức tỉnh ngay với quyết định đó. Bao nhiêu năm sống lam lũ trong xóm nghèo lao động, chịu sự bất công của xã hội – sự cách biệt về lối sống, ít nhiều họ vẫn mơ ước cuộc cách mạng làm đổi đời, cuộc cách mạng công bằng xã hội, những ngày đầu họ “hồ hởi, phấn khởi” thấy chính quyền cách mạng chiếu cố bằng sự cấp phát mấy lon gạo cứu đói. Giờ đây mấy lon gạo cứu đói là lý do buộc họ phải ra khỏi thành phố về quê sản xuất theo chính sách. Họ có cảm tưởng bị đánh lừa. Họ đâu có thể phân bì với chị Tư Nở bán bánh da lợn, cô Hai Nên trông con cho gia đình Thiếu tá Bê, anh Năm Cần đạp xích lô, những người này được vào ban lãnh đạo ấp, được chiếm những ngôi nhà lầu khang trang của những người di tản. Trong ngày đầu tiên giới thiệu trụ sở ấp, những người đó đều tự giới thiệu thành tích rải truyền đơn, ném lựu đạn, nuôi cán bộ, giao liên trong trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân. Người dân nghèo mới vỡ lẽ, cách mạng đem lại vinh quang và công bình cho người nghèo trong tổ chức của họ – còn dân nghèo muôn đời vẫn là người chịu đựng trước tiên những đau khổ – áp bức, theo chính sách phải đi ra khỏi thành phố trước cả mấy ông “ngụy quân”, “ngụy quyền”.

Thời gian trăng mật qua nhanh, người Saigon mau chóng nhìn ra những sự thật. Từ thái độ khâm phục kháng chiến trước 75, đến sợ sệt rõ ràng trong những ngày đầu tiếp xúc đến quen thuộc và khinh thường. Người ta khinh thường vì sự ngây ngô, dốt nát của cán binh Cộng Sản, trong dân chúng người ta truyền nhau rất mau các câu chuyện cười có thật về những người chiến thắng này. Chuyện cán bộ mua cá lóc về bỏ bồn cầu tiêu nuôi, khi bấm nút cá biến mất; chuyện thấy quạt trần tưởng máy chém; bình ga nấu bếp gọi là bom Mỹ; chuyện cán bộ mua nịt vú về làm lọc cà phê; lấy băng vệ sinh phụ nữ làm khẩu trang chạy Honda; cán bộ vào quán đòi uống sữa Honda; người ta ùn ùn chạy đi xem bảng hiệu “xưởng đẻ lớn” được thay cho bảng “Bệnh Viện Sản Khoa Từ Dũ”. Sợ người ta đi xem đông quá nên chính quyền cách mạng phải thay bằng một tên khác là “Viện Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em”. Người ta bắt đầu đánh giá chính quyền cách mạng qua công tác xóa nạn mù chữ tẻ nhạt, vì công việc này kết thúc tại miền Nam từ năm 1955, 1956; Hội Phụ Nữ hội thảo về đề tài Nam Nữ Bình Quyền, kích động phụ nữ đấu tranh với mẹ chồng không kết quả, nhiều phụ nữ phát biểu là họ hoàn toàn độc lập với mẹ chồng và nhiều khi thấy ngượng khi lấn lướt chồng.

Hình ảnh những cao ốc công sở treo đầy quần áo đàn bà, chủ tịch huyện vừa ôm con vừa giải quyết hồ sơ với hai chân ngồi chồm hổm trên ghế, những bãi cỏ trong cơ sở hay tư gia bị đào lên để trồng khoai mì… Tất cả những hình ảnh và việc làm trên khiến cho người Saigon thấy được là họ đã bỏ xa những người chiến thắng đến 50 năm. Miền Nam bỏ xa miền Bắc 50 năm, vì trong 21 năm chia cách, miền Nam tiến mà miền Bắc thì lùi. Người miền Nam sống trong một xã hội tiến bộ mà ít người thấy. Người ta chỉ nhìn thấy những khía cạnh tiêu cực của miền Nam, còn phần tiến bộ không chú ý đến, bỏ qua hoặc không có đối tượng để so sánh. Người bên ngoài mới đến miền Nam thì thấy rõ. Phạm Văn Đồng lần đầu tiên đến Saigon, ngồi xe quan sát một hồi, y bảo xe ngừng lại ngay giữa đường Tự Do, bước xuống xe để nhìn quanh một lúc như tận hưởng tất cả sung sướng của kẻ chiến thắng, y thốt lên: “Hiện đại quá, hiện đại quá!”. Lê Duẩn nói với những người thân tín: “Với tài sản đế quốc Mỹ bỏ lại miền Nam, không bao lâu đất nước ta sẽ tiến bộ”.

 

Những bài mới đăng

Mùa Thu Lá Bay