Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực
 

Tiếng Đàn Trên Sông 
Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị 

 Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị ( Phần 1)

 

 


Bạch Cư Dị , tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người Thiểm Tây , có bản chất thông minh từ nhỏ, năm 6 tuổi đã bắt đầu học làm thơ . Ông đã lớn lên trong một bối cảnh lịch sử triền miên khói lửa binh đao, nên ông gần gũi và thông cảm với nỗi khốn khổ, nghèo khó và cảnh cơ hàn cay đắng của tầng lớp lao động do vương triều phong kiến gây ra, cũng như ông đã đồng tình với niềm ước vọng và phẫn uất của người dân lao động. Những sự cảm thụ đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thi ca của ông. Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, được bổ làm quan trong triều đình giữ chức Tả thập di . Ông đã sống trong một thời kỳ đen tối, lúc mà xã hội Trung Quốc đang trên con đường suy thoái, những mâu thuẫn của các phe cánh thống trị trong triều đình khó hàn gắn được . Với bản tính trung thực dám nói thẳng (dù với tinh thần tôn quân), ông đã dám phê phán gay gắt và can đảm đấu tranh cho chính nghĩa, nên ông đã làm mất lòng vua và các quan đại thần. Nhiều kẻ nịnh thần căm ghét, dèm pha, và hạch tội ông . Ông bị giáng chức làm tư mã Giang Châu (815-818) , là một chức vị nhàn rỗi, không có công việc gì làm, mang một tâm sự buồn bã chán ngán thế thái nhân tình . Trong thời gian nầy ông sống trong một mái nhà tranh bên ngôi chùa, và dành nhiều thì giờ để tu tiên học đạo . Bài thơ nổi tiếng Tỳ Bà Hành của ông đã được sáng tác trong giai đoạn nầy, được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân và được xã hội đón tiếp thưởng thức quí trọng. Đó là bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xã hội, hiện thực đã được truyền tụng trong nhân gian, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ .

 

Trên bước đường phiêu bạt, ông đã thấy nhiều khách thập phương yêu thơ ông đã ghi chép lại những bài thơ trên bờ tường của trường làng, chùa chiền, quán trọ, quán rượu, cũng như dán trên mui thuyền và những hội quán thi phú, tập văn của các nho sinh . Ông rất vui sướng, lạc quan tin rằng thơ ông gần gũi với dân chúng và được nhiều người quí trọng và ưa thích. Bạch Cư Dị đại diện cho dòng thơ hiện thực phê phán vì khi ông đã phải sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ quan liêu phong kiến đồi trụy, Bạch Cư Dị đã dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công trong xã hội, cũng như sự bóc lột của bọn quan lại quý tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi lòng uất nghẹn và nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba chìm bảy nổi..

 

Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thi ca, ông muốn thi ca phải gắn bó với đời sống, phản ảnh hiện thực xã hội, tràn đầy tư tưởng nhân đạo, nhân văn . Bạch Cư Dị đã nói “ Làm văn phải vì thời thế mà làm, làm thơ phải vì thực tại mà viết “ (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự nhi tác ). Thơ Bạch Cư Dị phù hợp chủ nghĩa hiện thực theo con đường “phục cổ để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn cản bước tiến của xã hội và đất nước. Bài Trường Hận Ca của ông diễn tả mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi, nhưng cũng có những ý tưởng sâu sắc thầm kín mỉa mai …

 

Bài Tỳ Bà Hành của ông có tình tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động, theo lối “ thuật hoài” (miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn riêng tư thầm kín của tác giả như một người mang số phận hẩm hiu , để mà thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu truyện, gặp nhiều cảnh éo le, không may mắn trên đường đời . Bài thơ ngân vang một cảm xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía …Ông đã nói “ sự việc dẫn dắt ở ngoài, tình lý rung động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh …”   Đó là những lời bộc bạch chân tình, nói lên cái tâm huyết của một người trí thức muốn bày tỏ tấm lòng ưu thời mẫn thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác giả bị chèn ép, bạc đãi trong một xã hội phong kiến đầy dẫy bất công. Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đã gióng lên tiếng chuông cảnh cáo một chế độ phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm, tình cảm, hạnh phúc, và quyền sống của người phụ nữ . Nhà thơ đã tìm thấy một tâm hồn đồng điệu, một tương thức tri âm qua người kỹ nữ gặp trên sông Tầm Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ tình của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống.

 

Bạch Cư Dị trong một lá thư gửi người bạn đã nói lên những suy nghĩ sâu sắc về thi ca : “ Cái cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa . Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa “ (Nguyễn Khắc Phi dịch) . Bài thơ Tỳ Bà Hành đã tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thúy bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố : tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩa .


Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815) Bạch Cư Dị bị giáng chức và đổi đi làm Tư Mã Giang Châu, và ông cũng đã trút niềm tâm sự u uẩn nầy qua bài thơ:

Chu Trung Dạ Vũ

Giang vân ám du du
Giang phong lãnh tu tu
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu

Bạch Cư Dị

 

Trong Thuyền Đêm Mưa

Mây đen nghịt, nước sông trôi
Gió sông lạnh ngắt bồi hồi khách thơ
Mui thuyền thánh thót hạt mưa
Bập bềnh sóng vỗ đong đưa mái thuyền
Trong khoang khách bệnh nằm yên
Chẳng may giáng chức về miền Giang Châu

Hải Đà

 

Bài Tỳ Bà Hành được viết vào thời gian nầy (lúc Bạch Cư Dị bị giáng chức làm Tư mã Giang Châu), bài thơ gồm 616 chữ được sáng tác ngay trên thuyền . Giang Châu có núi Khuông Lư, bến Tầm Dương đều là nơi danh lam thắng cảnh . Một bữa xuống thuyền thong dong dạo chơi, trong một đêm trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe một tiếng đàn thánh thót văng vẳng, lúc biến hóa lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc ngưng bặt luyến tiếc từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó . Ông ghé thuyền, và gặp người kỹ nữ đang gảy đàn tỳ bà. Bạch Cư Dị đã cảm thấy mình đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc trên bến sông đêm thanh vắng .Cô đào đã gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt hảo, trầm bổng xao động người nghe .Sau đó người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng nhan đa truân và đã bộc bạch thổ lộ tâm tình riêng tư của mình cho ông nghe . Cảnh và tình hòa hợp . Âm đàn và tâm trạng chan hoà cảm xúc, cảnh ngộ . Mỗi tiếng đàn ngân lên như nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca nữ hòa mình với nhịp đập bồi hồi thổn thức của con tim người thơ . Chợt có mối đồng cảm, đồng tình giữa người thơ long đong trên bước đường sự nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lãng của người ca nữ đáng thương. Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị đã tài hoa sáng tác một mạch bài Tỳ Bà Hành đầy nhừng hình ảnh tâm trạng thực và sinh động, và ông ngâm bài thơ luôn cho cô nghe. Xúc động trước chân tình tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những ngón tay mềm mại lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lãng đãng che phủ khoan thuyền . Trời không lất phất những hạt mưa .. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót gieo vang những âm điệu buồn vời vợi trong lòng ai ?
 

”Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh “


Tỳ Bà Hành
 

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách

Phong diệp địch hoa thu sắt sắt

Chủ nhân há mã khách tại thuyền

Cử tửu dục ẩm vô quản huyền

Túy bất thành hoan, thảm tương biệt

Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt

Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh

Chủ nhân vong quy khách bất phát

Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ?

Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì

Di thuyền tương cận yêu tương kiến

Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến

Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai

Do bão tỳ bà bán già diện

Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh

Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình

Huyền huyền yểm ức, thanh bình tứ

Tự tố bình sinh bất đắc chí

Đê mi tín thủ tục tục đàn

Thuyết tận tâm trung vô hạn sự

Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu

Sơ vi “Nghê thường”, hậu “Lục yêu”

Đại huyền tao tao như cấp vũ

Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ

Tao tao thiết thiết thác tạp đàn

Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn

Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt

U yết tuyền lưu thủy há than

Thủy tiền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt

Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết

Biệt hữu u tình ám hận sinh

Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh

Thiết kỵ đột xuất đao thương minh

Khúc chung thu bát đương tâm hoạch

Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch

Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn

Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch

Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung

Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung

Tự ngôn: “Bản thị kinh thành nữ

Gia tại Hà Mô lăng hạ trú

Thập tam học đắc tỳ bà hành

Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ

Khúc bãi tằng giao Thiện Tài phục

Trang thành mỗi bị Thu Nương đố

Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu

Nhất khúc hồng tiêu bất tri số

Điền đầu ngân tì kích tiết toái

Huyết sắc la quần phiên tửu ố

Kim niên hoan tiếu phục minh niên

Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ

Đệ tẩu tòng quân, a di tử

Mộ khứ, triêu lai nhan sắc cố

Môn tiền lãnh lạc xa mã hí

Lão đại giá tác thương nhân phụ

Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly

Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ ?

Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền

Nhiễu thuyền nguyệt minh, giang thủy hàn

Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự

Mộng đề trang lệ hồng lan can “

Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức

Hựu văn thử ngữ trùng tức tức

Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân

Tương phùng hà tất tằng tương thức

”Ngã tòng khứ niên từ đế kinh

Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành

Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc

Chung tuế bất văn ty trúc thanh

Trú cận Bồn Giang địa đê thấp

Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh

Kỳ gian đán mộ văn hà vật

Đỗ quyên đề huyết viên ai minh

Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ

Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh

Khởi vô sơn ca dữ thôn địch

Ẩu á trào triết nan vi thính

Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ

Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh

Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc

Vị quân phiên tác tỳ bà hành “

Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập

Khước tọa xúc huyền, huyền chuyển cấp

Thê thê bất tự hướng tiền thanh

Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp

Tọa trung khấp hạ thùy tối đa ?

Giang Châu tư mã thanh sam thấp

 Bạch Cư Dị

Bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh: 

Tỳ Bà Hành

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu

Người xuống ngựa, khách dừng chèo

Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti

Say những luống ngại khi chia rẽ

Nước mênh mông đượm vẻ gương trong

Đàn ai nghe vẳng bên sông

Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi

Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ?

Dừng dây tơ nấn ná làm thinh

Dời thuyền ghé lại thăm tình

Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui

Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ

Tay ôm đàn che nửa mặt hoa

Vặn đàn mấy tiếng dạo qua

Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay

Nghe não nuột mấy dây buồn bực

Dường than niềm tấm tức bay lâu

Mày chau tay gẩy khúc sầu

Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn

Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt

Trước Nghê thường sau thoắt Lục Yêu:

Dây to nhường đổ mưa rào

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy

Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau

Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ

Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ

Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước

Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao

Cung đàn trọn khúc thanh tao

Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây

Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt

Một vầng trăng trong vắt lòng sông

Ngậm ngùi đàn bát xếp xong

Áo xiêm khép nép hầu mong dãi nhời

Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ

Cồn Hà Mô trú ở lân la

Học đàn từ thuở mười ba

Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên

Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc

Ả Thu nương ghen lúc điểm tô

Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua

Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn

Vành lược bạc gãy tan dịp gõ

Bức quần hồng hoen ố rượu rơi

Năn năm lần lữa vui cười

Mải trăng gió chẳng đoái hoài xuân thu

Buồn em trảy, lại lo dì thác

Sầu hôm mai đổi khác hình dung

Cửa ngoài xe ngựa vắng không

Thân già mới kết duyên cùng khách thương

Khách trọng lợi khinh thường ly cách

Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi

Thuyền không, đậu bến mặc ai

Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng

Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ

Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen

Nghe đàn ta đã trạnh buồn

Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy nhời :

” Cùng một lứa bên trời lận đận

Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau

Từ xa kinh khuyết bấy lâu

Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai

Chốn cùng tịch lấy ai vui thích

Tai chẳng nghe đàn địch cả năm

Sông Bồn gần chốn cát lầm

Lau vàng, trúc võ, âm thầm, quanh hiên

Tiếng chi đó nghe liền sớm tối

Cuốc kêu sầu, vượn nói nỉ non

Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn

Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng

Há chẳng có ca rừng, địch nội ?

Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe

Tỳ bà nghe dạo canh khuya

Dường như tiên nhạc gần kề bên tai

Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa

Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca“

Đứng lâu dường cảm lời ta

Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây

Nghe não nuột khác tay đàn trước

Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi

Lệ ai chan chứa hơn người ?

Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh

 

 Phan Huy Vịnh dịch

 

Bản dịch Tỳ Bà Hành của Phan-Huy-Vịnh được nhiều người công nhận là bản dịch xuất sắc nhất . Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616 chữ. Phan Huy Vịnh dịch Nôm theo thể song thất lục bát (7-7-6-8), thành 22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ .Theo tác giả Trần Thị Băng Thanh (Từ Điển Văn Học – nxb Khoa Học Xã Hội) : “ … cho đến nay, những người yêu thích văn chương biết đến Phan Huy Vịnh là nhờ bản dịch của bài Tỳ Bà Hành … nguyên tác là của Bạch Cư Dị . Tỳ Bà Hành miêu tả tâm trạng quan Tư Mã Giang Châu họ Bạch trong đêm nghe người ca nữ đã luống tuổi ở bến Tầm Dương, đánh đàn tỳ bà và kể chuyện cuộc đời chìm nổi của mình . Bản dịch gồm 22 khổ thơ song thất lục bát … Đóng góp lớn nhất của Phan Huy Vịnh là sử dụng tiếng Việt . Cũng là những từ ngữ thông thường, những thủ pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, đã làm cho tác phẩm có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật dịch . Từ lâu bản dịch Tỳ Bà Hành đã được phổ cập rộng rãi và coi là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời sống độc lập với nguyên tác. Nó đã chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt Nam “ (TTB)

Cũng theo tác giả Ngô Văn Phú : “Riêng bản dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, sau này là một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho, các quan viên hát ả đào (kể cả thời Tây học) rất yêu thích . Năm 1986, trong một cuộc tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của các quốc gia của UNESCO thuộc Liên hợp quốc, bài Tỳ Bà Hành (bản dịch) , được nghệ sĩ Quách thị Hồ thể hiện bằng thể hát nói, đã được tặng giải thưởng cao . Đó cũng là sự phát triễn, kết hợp tài tình giữa bản dịch thơ (lời) và âm nhạc “.

 

Xem tiếp theo mục lục của chủ đề "Tỳ Bà Hành":

Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị ( Phần 1)

Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị (Phần 2)

Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị (Phần 3)

Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị (Phần 4)

Tỳ Bà Hành ( Nhạc Mai Đức Vinh)

Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán